Cảm nhận về tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở bài số 7. Có lẽ mọi người thường nhắc đến tình yêu với những viễn cảnh lãng mạn, đẹp đẽ và tình tứ.
Chủ đề: Em hãy nêu cảm nhận của mình về Chí Phèo và Thị Nở tình yêu Chí Phèo dưới dạng bài văn ngắn. Gợi ý bài tập về nhà: 3.1. Thí dụ về bài luận số 1. Chí Phèo là 1 trong những truyện hay nhất của văn chương hiện thực Việt Nam trước cách mệnh tháng 8.
Chút tình cảm tưởng chừng rất vu vơ giữa Chí Phèo và Thị Nở ấy đã tác động, chi phối một cách sâu sắc đến quan hệ giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Từ đó có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo bắt đầu từ buổi tối trước khi gặp
Ngày 7/10/2022, tại lễ trao giải thưởng quốc tế Asia Pacific Enterprice Awards (APEA) - Vincom Retail đã được vinh danh ở hạng mục “Thương hiệu truyền cảm hứng - Inspirational Brand Award”, khẳng định vị thế dẫn đầu thị trường bất động sản bán lẻ Việt Nam. Asia Pacific
4. Cảm nhận bài thơ Từ ấy, mẫu 4 (Chuẩn) 5. Cảm nhận bài thơ Từ ấy, mẫu 5 (Chuẩn) 6. Cảm nhận bài thơ Từ ấy của Tố Hữu, mẫu số 6: 7. Cảm nhận của em về bài thơ Từ ấy, mẫu số 7: 8. Cảm nhận Từ ấy của Tố Hữu, mẫu số 8: 9. Cảm nhận bài thơ Từ ấy, mẫu
Tôi có thể cảm nhận được hơi ấm của nắng sớm đang lan tỏa trong phòng. Cuộc sống thật sự là một sự tận hưởng. Ta tận hưởng giây phút hiện tại đang là. Trong sự tận hưởng này có sự trở về và khám phá. Trở về với chính mình và khám phá vẻ đẹp của hiện
K1tOO. Cảm nhận về tình yêu trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao để làm sáng tỏ lên ẩn sâu trong cuộc sống cơ cực của những con người sống trong một xã hội phong kiến thối nát vẫn là tình người nhen nhóm, vẫn là sự cảm thông, đồng cảm và tình yêu bé mọn của những kẻ thấp cổ bé họng sống dưới đáy xã hội như Chí Phèo và Thị NởĐề bàiCảm nhận về tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm cùng tên của Nam CaoDàn ý cảm nhận về tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở1. Mở bàiGiới thiệu vấn đề Trong “Chí Phèo” nhà văn Nam Cao không chỉ lên án xã hội phong kiến đen tối, vô nhân tính, bênh vực cho cùng nỗi thống khổ đến cùng cực của người nông dân nghèo mà ngòi bút nhân đạo của nhà văn Nam Cao còn thể hiện thái độ đồng cảm, trân trọng tình yêu giữa những con người khốn khổ dưới đáy xã hội là Chí Phèo và Thị Thân bài- Chí Phèo và Thị Nở đều là những con người khốn khổ dưới đáy xã hội, họ là nạn nhân đáng thương của xã hội phong kiến thối nát, phải chịu những định kiến khắc nhận làm tay sai cho Bá Kiến, Chí Phèo từ một anh canh điền hiền lành, lương thiện đã trở thành con quỷ dữ làng Vũ ĐạiThị Nở là người đàn bà xấu xí, nhà lại có mả hủi nên bị mọi người trong làng xa lánh, sợ hãi, họ nhìn Thị Nở như một cái gì đó rất tởm.–> Hai con người khốn khổ bị cả xã hội chối bỏ ấy tuy mang những khiếm khuyết lớn về mặt ngoại hình, nhân tính nhưng lại là mảnh ghép hoàn hảo cho Trong một lần uống rượu say, gặp Thị Nở ngủ quên tại vườn chuối, Chí Phèo và Thị Nở đã có một đêm sống như vợ Buổi sáng hôm sau, khi tỉnh cơn rượu, Chí Phèo đã bị cảm, vì thương Chí có một mình, Thị Nở đã nấu cháo hành mang sang cho Chí giải Hành động ngỡ như hết sức bình thường này lại có ý nghĩa vô cùng quan trọngThể hiện tình thương của Thị Nở với Chí PhèoĐánh thức con người lương thiện bên trong Tình yêu của Thị Nở và Chí Phèo diễn ra thật tự nhiên, họ nhìn thấy ở nhau những giá trị tốt đẹp mà định kiến của người dân làng Vũ Đại không thể trông Chí Phèo và Thị Nở đã có một khoảng thời gian ngắn chung sống hạnh phúc với nhau. Có thể thấy cả Chí và Thị đều trân trọng đối với mối tình này, từ khi quen Thị, Chí uống ít rượu hẳn, Thị hay cười Trước sự phản đối của bà cô Thị Nở, thái độ giận dữ của Thị Nở, Chí Phèo đã quyết định giết chết Bá Kiến, dùng dao tự tử để chấm dứt bi kịch không lối thoát của cuộc đời Kết bài cảm nhận tình yêu của Chí Phèo và Thị NởNhìn vào mối tình của Thị Nở, Chí Phèo người đọc cảm thấy được cái gì đó rất đáng yêu nhưng cũng không kém phần cảm động. Hai người họ bị cả xã hội quay lưng nhưng cũng chính họ lại là những con người lương thiện, khát khao yêu thương 3 bài văn hay cảm nhận tình yêu của Chí Phèo và Thị NởBài văn mẫu 1Tình yêu bé mọn của những kẻ sống ở dưới đáy của xã hội phong kiến thối nátTác phẩm Chí Phèo của Nam Cao xưa và nay vẫn được xem là một truyện ngắn tiêu biểu, xuất sắc của văn học sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Tác phẩm được chú ý khai thác ở các khía cạnh tố cáo xã hội phi nhân tính, sự áp bức của giai cấp thống trị, số phận con người bị tha hoá... nhiều hơn là nhìn từ góc độ tình bộ nội dung, kết cấu tác phẩm gắn liền với cuộc đời của nhân vật chính là Chí Phèo, có một chi tiết đáng lưu ý là Các biến cố làm nên những đổi thay to lớn, những bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo cũng như trong kết cấu tác phẩm lại đến từ hình bóng những người đàn bà. Tuy nhiên có bóng dáng đẩy Chí Phèo vào chốn tăm tối nhưng cũng có gương mặt tuy xấu xí nhưng lại đưa Chí Phèo ra nơi ánh sáng của cõi minh đời Chí Phèo đột nhiên chuyển hướng do việc tiếp xúc miễn cưỡng với bà Ba Bá Kiến, một người "đàn bà phốp pháp, má hây hây", để từ một anh nông dân hiền lành chất phác trở thành một tên tù, một tên lưu manh mất hết nhân tính, mất luôn cả ý thức về mình lẫn ý thức làm người. Tuy nhiên, lần gặp gỡ với Thị Nở lại mang đến một hệ quả ngược, nó làm đảo lộn tất cả. Chính cuộc gặp gỡ với Thị Nở chứ không phải một biến cố xã hội nào đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời Chí Phèo và quyết định số phận của cả Chí Phèo lẫn Bá tình cảm tưởng chừng rất vu vơ giữa Chí Phèo và Thị Nở ấy đã tác động, chi phối một cách sâu sắc đến quan hệ giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Từ đó có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo bắt đầu từ buổi tối trước khi gặp Thị Nở, cái buổi tối mà hắn "vừa đi vừa chửi", để rồi từ đó mối quan hệ dây mơ rễ má với Bá Kiến, những khúc, đoạn trong cuộc đời Chí Phèo như một cuốn phim quay chậm được tái hiện. Tất cả những chi tiết này có tính chất như một đường truyền, một lời đề dẫn hay như những hoạ tiết có tính chất phông nền để làm nổi bật tác động của tình yêu, tình người đến cuộc đời Chí qua nhân vật Thị trong những đặc trưng phong cách của Nam Cao là sử dụng những yếu tố trái khoáy, ngược nhau để mô tả hiện thực. Tên của tác phẩm cũng thường hàm chứa một điều trái khoáy như Lang rận, Chí Phèo, Tình già... Bản thân sự tồn tại nhếch nhác của nhân vật Lang rận cùng với vẻ bề ngoài bẩn thỉu là một sự trái ngược, mâu thuẫn với nghề nghiệp, vị thế xã hội mà nhân vật mang vác. Tất cả những đối nghịch đó được thâu tóm trong một cái tên Lang rận, và được khắc sâu hơn trong sự tương phản giữa vẻ bên ngoài nhếch nhác, thấp kém với đời sống tâm hồn cao đẹp. Hay trong truyện Nửa đêm, người cha có tên là Thiên Lôi nhưng lại đặt tên con là Đức - như hai mặt của một quá trình biện chứng nhân quả... những chi tiết đó có thể hiểu tại sao Nam Cao lại lạ hoá câu chuyện tình Chí Phèo - Thị Nở như vậy. Không lãng mạn thơ mộng như các câu chuyện tình của Tự Lực Văn Đoàn, buổi tối gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở bắt đầu bằng hình ảnh Chí Phèo "vừa đi vừa chửi... chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo", cuộc đời hắn chìm trong những cơn say. Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để "nhớ rằng hắn có ở đời". Tức trong hắn chỉ tồn tại không phải ý thức mà là một khối u u mê mê, tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự hiện hữu của bản thân, hắn cũng không nhận thức được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường trăng nhễ nhại, méo mó, xệch xạc. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ về một dạng tồn tại bất toàn của con người trong xã hội cũ. Con người không được sống thực là chính mình mà chỉ là những cái bóng, nhưng cũng không được là cái bóng của chính mình mà là bóng của giai cấp thống trị nên thành "cái vật xệch xạc, một cái gì đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại". Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, Chí Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời trống rỗng và bất toàn của hai con Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể không có đường nét cá tính gì đặc biệt mà còn khùng khùng dại dại, còn dung nhan là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm Trên một khuôn mặt ngắn ngủn, có cái mũi "vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành" và một đôi môi "cũng cố to cho không thua cái mũi" hơn nữa, lại dày và có "màu thịt trâu xám ngoách". Toàn bộ "nhan sắc" của Thị Nở được Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là "xấu đến ma chê quỷ hờn". Từ hai cuộc đời, hai thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mông muội tăm tối của Chí Phèo - Thị Nở, Nam Cao đã để cho họ kết hợp lại như một sự liên kết hoàn hảo để tạo ra một con người mới thống nhất trong sự bừng nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị Nam Cao, tình yêu không đi liền với sự lý tưởng hoá đối tượng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần tuý là bản năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc nhục thể, cứ "xanh rời rợi như là ướt nước". Cây dâu tây gần bờ sông thì "thân mềm oặt", những tàu chuối trong vườn nhà hắn thì "nằm ngửa, ưỡn cong cong lên" thỉnh thoảng lại "giẫy lên đành đạch như là hứng tình". Cái bóng - dấu ấn về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được phát hiện trong lúc này. Hành động chiếm đoạt Thị Nở của Chí Phèo lúc đầu chỉ thuần tuý là bản năng nhưng chính trong cõi âm u của bản năng ấy một ánh loé diệu kỳ đã bùng dậy hé mở cho ta nhìn thấy bản thể tốt đẹp của con Cao đã vượt trước những nhà văn của thời đại ông ở chỗ không dừng lại ở những tình yêu lý tưởng thuần tuý tinh thần như của Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt Khái Hưng, Lan và Ngọc trong Hồn bướm mơ tiên Khái Hưng, Thanh và Ngọc trong Dòng sông Thanh Thuỷ Nhất Linh, mà ông đã hợp nhất tình yêu trong sự hoà hợp tinh thần và thể xác. Đó là những chi tiết làm căn cứ để khẳng định đây là tình yêu chứ không thuần tuý là bản năng khi Nam Cao tiếp tục miêu tả thêm lúc Chí Phèo đau bụng và ói mửa, được Thị Nở dìu về lều... Hành động ban đầu là bản năng đã làm sống dậy tình yêu, sống dậy phần nhân tính tưởng không có hay đã chết trong con người của cả Chí Phèo lẫn Thị Nở. Ở đây có sự tái sinh, phục sinh của tinh thần nhờ tình yêu và sự gắn kết hai thân xác. Nó đã cải hóa, tái sinh Chí Phèo, tình yêu cho Chí Phèo và Thị Nở ý thức về chính đây, họ chỉ là hai khối mông muội, Chí Phèo thì hung bạo và triền miên trong vô thức và những cơn say vô tận "Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận". Vậy nhưng trong tình cảm với Thị Nở, Chí Phèo đã tìm thấy chính mình, khám phá ra chính mình, hơn thế nữa khám phá ra sự sống. Con người ý thức, con người cảm xúc của Chí Phèo sống dậy. Lần đầu tiên hắn tỉnh hẳn rượu, đó là cái tỉnh của ý sao Chí Phèo "càng uống lại càng tỉnh ra?". Bởi vì tình yêu của hắn và Thị Nở đã làm thay đổi tâm điểm cuộc sống của hắn. Tâm điểm đó đã trượt từ cõi u minh của vô thức những ngày trước đây về với cõi thực tại, bắt Chí Phèo thừa nhận một thực tại cuộc sống đang tồn tại dù có hay không có hắn. Nó định vị tâm điểm cuộc sống của Chí Phèo từ những cơn say nghiêng ngả vào một cuộc sống bình thường. Chính vì vậy mà hắn tỉnh, hắn đã nhìn thấy chính bản thân mình. Thấy "bâng khuâng" rồi "lòng mơ hồ buồn"rồi "nghĩ vẩn vơ"... Thị Nở cũng thế, lần đầu tiên Thị lắng nghe cảm xúc của tâm hồn mình để "trằn trọc" "nghĩ ngợi" "tưởng tượng bâng quơ" . giới hạn của cuộc đời Chí Phèo như đã được phá bỏ, nó mở rộng, liên thông với cuộc đời bên ngoài. Chính tình yêu đã mở thông lối về với cuộc đời của Chí Phèo, hắn cảm nhận được cuộc sống xung quanh"Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn !".Tình yêu cũng gia tăng thêm kích thước cho cuộc đời hắn. Trước đây Chí Phèo vô cảm, vô tâm, không có ý thức về chính bản thân mình nhưng nay hắn có cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là quá khứ với những kỷ niệm yêu thương đầm ấm, là mùi hương từ bát cháo hành và những săn sóc ân cần của Thị Nở, những kỷ niệm xa xưa cũng hiện về. Hắn từng mơ tới một viễn cảnh bình yên với chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải... hắn còn sợ già, sợ cô độc và muốn làm hòa với mọi người, muốn làm người lương thiện. Sự chuyển vị này là hệ quả tất yếu do tình yêu đem lại, nó khắc họa một cách sâu sắc bản thể bất toàn và cô độc của Chí Phèo lẫn Thị Nở trước khi yêu và được yêu. Chính tình yêu đã bù đắp khiếm khuyết trong tâm hồn, tái sinh một cuộc đời và làm giàu có đời sống nội tâm của nhân vật này rất vì thức tỉnh, vì đã được khai hóa và giàu có nhờ tình yêu nên khi bị Thị Nở từ chối "và ngoay ngoáy cái mông đít ra về", Chí Phèo mới cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. Sức mạnh của tình yêu đã đưa hai nhân vật này đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, trong khi thực tại lại không như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã hội không dễ buông tha cho con người nên thiên đường tình yêu, khát vọng làm người của Chí rơi tõm vào hiện thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo phải đối diện với hiện thực với nỗi đau khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm dao giết chết Bá Kiến. Lời chì chiết của bà cô Thị Nở như là một chi tiết "giải thiêng" tình yêu của Chí Phèo. Nó thực tế, trần trụi đến tàn nhẫn. Đó là cái giá mà Chí Phèo và Thị Nở phải trả để đến với nhau, những thành trì xung quanh tình yêu ấy không dễ gì phá nên Chí Phèo tự kết liễu đời mình là một cách chọn lựa thích hợp nhằm chối bỏ sự thỏa hiệp, quay lại cuộc sống trước những tác phẩm về tình yêu của Tự Lực Văn Đoàn của chủ nghĩa lãng mạn thì Chí Phèo của Nam Cao là một khám phá. Bởi Nam Cao vẫn viết về tình yêu nhưng không phải về bản thân tình yêu Chí Phèo - Thị Nở, mà sâu xa hơn, Nam Cao muốn hướng người đọc đến những vấn đề ngoài tình yêu. Đó là vấn đề về văn hóa, về con người và xã hội, về bản năng và vô thức, những ý niệm về thân phận con người, sự tự do thoát khỏi những buộc ràng của định kiến xã hội, khao khát làm vì vậy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao không mang dáng dấp của truyện tình theo nghĩa thông thường ta vẫn hiểu, cũng không chuyển tải nội dung tình yêu theo cách thông thường mà theo một cách rất trái khoáy, rất nghịch dị mang dấu ấn riêng của Nam Cao. Nó làm cho hiện thực cuộc sống không còn bị gò ép trong cái khuôn khổ thông thường, quen thuộc trong cái nhìn của mọi người mà hiện ra một cách đột ngột bất ngờ tạo sự ngạc nhiên trong cảm thể bạn quan tâm Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị NởBài văn mẫu 2Bài văn cảm nhận tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở hay nhấtChí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học hiện thực Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Thông qua tác phẩm, nhà văn Nam Cao không chỉ lên án xã hội phong kiến đen tối, vô nhân tính, bênh vực cho cùng nỗi thống khổ đến cùng cực của người nông dân nghèo mà ngòi bút nhân đạo của nhà văn Nam Cao còn thể hiện thái độ đồng cảm, trân trọng tình yêu giữa những con người khốn khổ dưới đáy xã hội là Chí Phèo và Thị Phèo và Thị Nở đều là những con người khốn khổ dưới đáy xã hội, họ là nạn nhân đáng thương của xã hội phong kiến thối nát, phải chịu những định kiến khắc nghiệt. Từ khi chấp nhận làm tay sai cho Bá Kiến, Chí Phèo từ một anh canh điền hiền lành, lương thiện đã trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại, mọi người đều khinh ghét, sợ hãi, thậm chí chối bỏ quyền làm người của Chí Phèo. Khi Chí Phèo cất tiếng chửi, không ai trong làng Vũ Đại đáp lại hắn một phần vì sợ phiền phức, mặt khác thể hiện thái độ bài xích, phủ nhận sự tồn tại của Chí Phèo. Ngay cả khi Chí Phèo chết đi người dân làng Vũ Đại cũng không có một chút đồng cảm bởi “ai chứ thằng Chí Phèo chết” thì vẫn không có ảnh hưởng đến cuộc sống của họThị Nở là người đàn bà xấu xí, nhà lại có mả hủi nên bị mọi người trong làng xa lánh, sợ hãi, họ nhìn Thị Nở như một cái gì đó rất tởm. Hai con người khốn khổ bị cả xã hội chối bỏ ấy tuy mang những khiếm khuyết lớn về mặt ngoại hình, nhân tính nhưng lại là mảnh ghép hoàn hảo cho Phèo vốn không phải nhan đề đầu tiên được đặt, khi được xuất bản, truyện ngắn này của Nam Cao được đặt với nhan đề “Đôi lứa xứng đôi”. Nhan đề này đã thể hiện được một phần nội dung đặc sắc của tác phẩm, đó là tình của Chí Phèo và Thị Nở. Tuy nhiên, khi xuất bản lại Nam Cao đã lựa chọn nhan đề Chí Phèo để thể hiện rõ hơn tư tưởng chủ đề của tác một lần uống rượu say, gặp Thị Nở ngủ quên tại vườn chuối, Chí Phèo và Thị Nở đã có một đêm sống như vợ chồng, đây cũng là lần gặp gỡ đầu tiên, tiền đề cho mối tình Chí Phèo, Thị Nở chớm nở. Buổi sáng hôm sau, khi tỉnh cơn rượu, Chí Phèo đã bị cảm, vì thương Chí có một mình, Thị Nở đã nấu cháo hành mang sang cho Chí giải rượu. Hành động ngỡ như hết sức bình thường này lại có ý nghĩa vô cùng quan cháo hành không chỉ thể hiện tình thương của Thị Nở với Chí Phèo – con quỷ dữ bị cả làng xa lánh mà hơi ấm của bát cháo còn có sức mạnh đánh thức con người lương thiện bên trong Chí. Tình yêu của Thị Nở và Chí Phèo diễn ra thật tự nhiên, họ nhìn thấy ở nhau những giá trị tốt đẹp mà định kiến của người dân làng Vũ Đại không thể trông thấy. Chí thấy ở Thị Nở – người đàn bà xấu xí bị cả làng xa lánh vẻ đáng yêu rất duyên, Thị Nở lại thấy ở Chí vẻ hiền lành ngỡ như không bao giờ có trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại Phèo và Thị Nở đến với nhau một cách tự nhiên, chân thành như thế, họ tuy không hoàn hảo nhưng lại là một nửa hoàn hảo dành cho nhau. Nếu nói Thị Nở là người đã đánh thức phần nhân tính của Chí Phèo, mang đến những khát khao hạnh phúc, khát khao sống lương thiện của một thời trai trẻ thì Chí Phèo cũng chính là người thật lòng yêu thương, trân trọng Thị như một người đàn bà bình thường, thứ mà ngỡ như rất xa xỉ với Phèo và Thị Nở đã có một khoảng thời gian ngắn chung sống hạnh phúc với nhau. Có thể thấy cả Chí và Thị đều trân trọng đối với mối tình này, từ khi quen Thị, Chí uống ít rượu hẳn, Thị hay cười hơn mà theo như đánh giá của Chí, nụ cười đó rất duyên. Thị Nở đã mang chuyện của mình và Chí hỏi bà cô nhưng bị phản đối. Vốn tính dở hơi, lại uất ức vì những lời mắng mỏ thậm tệ của bà cô, Thị Nở đã mang toàn bộ những lời mắng chửi đấy để “ném” vào mặt Chí. Thái độ của bà cô Thị Nở cũng chính là những định kiến ngặt nghèo của xã hội, Chí đã nhận ra rằng mình không thể quay trở về với con đường lương thiện được nữa. Chí Phèo đã quyết định giết chết Bá Kiến, dùng dao tự tử để chấm dứt bi kịch không lối thoát của cuộc đời ảnh Thị Nở đặt tay vào bụng khi nhìn thấy Chí Phèo chết cho người đọc một liên tưởng, phải chăng sau những ngày sống cùng Chí, một đứa trẻ đáng thương cũng đã định hình trong bụng của Thị. Đứa trẻ đó là kết tinh tình yêu của Chí – Thị nhưng cũng chính là dấu hiệu của sự lặp lại bi kịch ở Chí Phèo vào mối tình của Thị Nở, Chí Phèo người đọc cảm thấy được cái gì đó rất đáng yêu nhưng cũng không kém phần cảm động. Hai người họ bị cả xã hội quay lưng nhưng cũng chính họ lại là những con người lương thiện, khát khao yêu thương văn mẫu 3Văn mẫu 11 cảm nhận về tình yêu của Chí Phèo và Thị NởKhông son phấn ngọc ngà, cũng chẳng giàu sang. Thậm chí, thị Nở còn có dung mạo khiến người nhìn khiếp sợ. Nam Cao đã dựng lên thị xấu tới mức ma chê quỷ hờn. Còn Chí Phèo cũng chẳng hơn gì khi chỉ là một thằng say rượu, trên mặt chằng chịt những vết rượu dài do rạch mặt ăn vạ. Nhưng tình yêu của hai con người ấy dành cho nhau lại vô cùng đáng quý. Họ đã bước vào trang văn của Nam Cao qua tác phẩm Chí Phèo với một tình yêu bất ngờ, say đắm và lẫn với tình người cao quý, thiêng ai có thể ngờ được rằng hai con người ấy lại có thể yêu nhau. Chí không cha không mẹ, cuộc đời và xã hội đưa đẩy biến Chí thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại suốt ngày chìm trong cơn say triền miên. Còn thị cũng ở dưới đáy của xã hội, không ai để ý tới vì thị vừa dở hơi lại vừa xấu xí. Ấy vậy mà trong đêm tối, hai con người ấy đã vô tình ngã vào nhau, gắn bó với nhau và rồi mang đến cho nhau những hương vị thực sự của tình yêu. Khi yêu người ta vẫn thường chỉ nhìn thấy những điều tốt đẹp của người yêu. Thị cũng vậy, dẫu trước khi gặp thị, Chí là kẻ côn đồ, là tay sai của Bá Kiến đi đâm thuê chém mướn để đòi nợ. Nhưng trong lúc này, bằng đôi mắt của tình yêu, thị lại thấy Chí rất hiền. Thị còn nấu cho Chí một bát cháo hành đầy tình nghĩa, giúp Chí hạ nhiệt cơn sốt và thoát khỏi vũng bùn lầy tăm tối mà Chí đang vùng vẫy trong của thị rất trong sáng, vừa có tình vừa có nghĩa. Có thể do thị dở hơi, không nhận thức được nhiều. Nhưng về phía Chí Phèo, rõ ràng Chí hiểu rằng thị chỉ là một người đàn bà dở hơi, xấu xí. Nhưng điều đó có quan trọng không khi trong lúc tuyệt vọng nhất, đau khổ nhất, chính người đàn bà dở hơi ấy đã đem lại ánh sáng cho cuộc đời Chí ? Không những là tình yêu mà còn là tình nghĩa, tình người, khiến Chí bừng tỉnh giữa những cơn say dài tăm tối. Chính tình yêu ấy đã kéo Chí quay trở lại với ước mơ giản dị đến thánh thiện ngày nào có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải thêu thùa. Cuộc sống thật bình dị nhưng ấm áp và yên vui. Cũng chính tình yêu của thị đã khiến Chí thêm yêu đời, yêu cuộc sống khi Chí cảm nhận được những điều bé nhỏ xung quanh mình tiếng chim hót líu lo, tiếng mái chèo gõ cá, tiếng người đi chợ nói chuyện lao xao. Những điều ấy ngày nào cũng có nhưng đến giờ Chí mới để ý. Chí không muốn uống rượu nữa. Chí muốn quay đầu lại làm lại từ đầu. Chí cũng hiểu rằng mình có thể làm được điều đó và chính thị sẽ là chiếc cầu nối cho ban đầu họ ngã vào nhau vì ham muốn của thể xác. Nhưng sau đó, họ lại bẽn lẽn, thẹn thùng và tình tứ nhìn nhau như đôi trai gái mới hẹn hò. Thị thấy thị như yêu hắn đó là lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn. Một người như thị Nở càng không quên được. Cho nên thị nghĩ mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau ! Ăn nằm với nhau như vợ chồng. Tiếng vợ chồng thấy ngường ngượng mà thinh thích. Đó vẫn là điều mong muốn âm thầm của con người khốn nạn ấy chăng ? Hay là sự khoái lạc của xác thịt đã làm nổi dậy những tính tình mà thị chưa bao giờ biết đến ? Đến ngay cả chính tác giả cũng ngờ vực đặt ra câu hỏi đó là ham muốn của thể xác hay của tình yêu đích thực ? Nhưng ngay sau đó, lại diễn ra rất nhiều điều thay đổi trong con người Chí. Đó hoàn toàn không đơn thuần là sự ham muốn xác thịt, mà sâu thẳm là tình người, là tình yêu thực sự. Bởi nếu không yêu, không thương, thị đã bỏ mặc Chí và Chí cũng không nghĩ nhiều về cuộc đời như thế. Chí nghĩ đến tình người nhiều hơn là tình yêu. Chí ăn năn, lòng bâng khuâng và khát khao được trở lại cuộc sống yên bình ngày nào. Rồi Chí nghĩ đến tuổi già cô độc. Sự cô độc còn đáng sợ hơn cả bệnh tật. Không ai bên cạnh, không người sẻ chia...May mắn được gặp thị, thị dẫu dở hơi nhưng thị vẫn là người lương thiện. Thị khác hẳn với những kẻ tỉnh táo, khôn ngoan trong làng. Chỉ có mình Thị còn nhìn nhận Chí là người. Hoặc cũng có thể thị dở hơi nên không nhận ra Chí là con quỷ dữ. Nhưng rõ ràng ngay lúc này, trước mặt thị, Chí đâu có dữ dằn gì. Ngược lại, nụ cười của Chí còn làm khuấy động tâm hồn ngờ nghệch của người đàn bà ế chồng này. Người khác thấy Thị dở, Thị xấu. Nhưng Chí lại thấy Thị có duyên và đáng yêu vô cùng. Khi nhìn nhận mọi thứ bằng sự yêu thương chân thành, mọi thứ đều trở nên đáng quý và đáng trân trọng biết bao. Giá như thị đến với Chí sớm hơn, có lẽ Chí đã không lấn quá sâu vào con đường tội lỗi, và có lẽ trên khuôn mặt Chí cũng không có quá nhiều vết sẹo như thế. Nhưng cuộc đời mà, dẫu Nam Cao cũng thương Chí lắm, thương người nông dân lắm, nhưng ông không thể biến hóa sự thật một cách quá mức. Lòng đồng cảm của ông rất lớn lao nhưng ông vẫn phải để nguyên sự thật của xã hội đương thời nghiệt ngã. Ở đó, người nông dân bị kìm kẹp, bị đàn áp, bị bần cùng hóa tới mức đánh mất nhân tính, đánh mất tình yêu và những khát khao lương thiện tốt cũng vậy. Dù tình yêu của thị đã làm Chí đổi thay. Nhưng sự nghiệt ngã của lòng người, của người bà cô ế chồng của thị đã khiến thị quay lại cự tuyệt Chí. Chí lại rơi vào tuyệt vọng, khổ đau. Chí lại uống rượu để quên đi hết mọi chuyện. Nhưng lần này, Chí càng uống càng tỉnh. Và rồi Chí chọn cái chết để kết liễu cuộc đời mình, cũng là kết thúc một cuộc tình bi đát, đau thương. Có người nói, nếu Chí không yêu Thị, không gặp Thị, có lẽ Chí đã không chết thê thảm như vậy. Nhưng khi nhìn nhận ở góc độ thực tế của lòng nhân đạo, cái chết đối với Chí là điều nên làm. Bởi ta hiểu rằng, trong xã hội tàn ác, bất nhân ấy, nếu Chí còn sống, chắc chắn Chí sẽ lại là tay sai cho Bá Kiến, nối dài thêm cánh tay giết người cho hắn. Chí sẽ là nỗi ám ảnh khiếp sợ của dân làng Vũ Đại. Thà rằng lúc này Chí chết đi để được dừng lại những tội ác đó còn hơn tiếp tục sống trong tội lỗi, trong dày sao tình yêu của Chí Phèo và thị Nở cũng vẫn là một tình yêu rất đẹp. Tình yêu ấy không những là sự tình cờ, mà còn là tình người thiêng liêng, cao quý. Đến một người dở hơi như thị còn có tình có nghĩa, huống chi những người khác tỉnh táo, khôn ngoan ? Tình yêu trong xã hội hiện nay cũng vậy, ngoài yêu hãy biết thương, biết trân trọng nhau, biết cùng nhau cố gắng hướng đến những điều tốt đẹp. Nhà văn Nam Cao đã dựng lên một cuộc tình thật đẹp, thật ý nghĩa. Có thể người trong cuộc khiến người ta bật cười mỗi khi nhắc tới, nhưng chính tình yêu của họ lại là bài học sâu sắc cho mọi người giữa cuộc đời đầy mưu mô, tính toán. Rằng khi yêu hãy yêu thật lòng, hãy nghĩ đến những điều tốt đẹp, hãy bỏ qua cho nhau, cảm thông chia sẻ lẫn nhau. Như Chí không hề để ý đến tính tình dở hơi và "vẻ đẹp trời cho" của thị, hay chính thị cũng chẳng khinh ghét một người đàn ông không cha không mẹ, lại chuyên rạch mặt ăn vạ... Họ đã bù đắp cho nhau, làm nên một tình yêu thật đáng ngưỡng mộ. Dù sau đó cuộc tình tan vỡ nhưng đó là vì thời thế, vì xã hội. Vì thế, tình yêu ấy vẫn rất đáng trân trọng và ngợi khảo thêm Bài văn mẫu hay nói về giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo -Trên đây là top 3 bài văn mẫu cảm nhận về tình yêu của Chí Phèo và Thị Nở bao gồm cả bài văn đạt điểm cao mà Đọc tài liệu đã biên soạn để gửi đến các em tham khảo. Hy vọng sẽ giúp các em có thêm tài liệu để phát triển ý và viết được cho mình một bài văn hay. Chúc các em học tốt môn văn mẫu 11
Đề bài Cảm nhận của anh / chị về hình tượng nhân vật bà cô thị NởCùng với Lão Hạc, truyện ngắn Chí Phèo là một trong những kiệt tác của Nam Cao viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cả hai truyện ngắn xuất sắc này đều được chọn đưa vào chương trình phổ thông Ngữ văn 8 và Ngữ văn 11, tập 1 cùng với nhiều truyện ngắn khác, từng đem đến cho Nam Cao vinh dự là tác gia có số lượng truyện ngắn trong nhà trường phổ thông nhiều nay, nhắc đến hình tượng nhân vật điển hình của truyện ngắn Chí Phèo, người ta nghĩ ngay đến nhân vật chính mà tác giả lấy làm nhan đề tác phẩm mình lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ. Khi in thành sách lần đầu 1941, Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946, Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo Ngữ văn 11 Nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, H., 2007, tr. 178. Đã có không ít những công trình, bài viết về nhân vật độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam này. Đây là điều tất yếu. Bởi toàn bộ ý nghĩa của nội dung truyện ngắn hầu như toát ra từ hình tượng nhân vật Chí Phèo Trần Tuấn Lộ trong bài viết Qua truyện ngắn “Chí Phèo” bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao, T/c Văn học, số 4/1964 và Chí Phèo là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông cạnh Chí Phèo, theo chúng tôi, còn có một hình tượng nhân vật điển hình nữa mà ta vẫn ít nhắc tới. Nhân vật này xuất hiện không nhiều, chỉ có mặt ở gần cuối truyện, là một nhân vật phụ nhưng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển mạch truyện. Sự xuất hiện của nhân vật này là một bước ngoặt đối với sự chuyển biến của câu chuyện cũng như đối với cuộc đời, số phận của nhân vật trung tâm. Hơn nữa, nhân vật này còn mang tính điển hình rất rõ nét. Đó là nhân vật bà cô Thị thật, nhân vật bà cô Thị Nở chỉ là một nhân vật phụ. Trong truyện, Nam Cao miêu tả nhân vật bà cô ấy không nhiều, chỉ phác thảo sơ lược vài nét. Về lai lịch, tác giả chỉ kể ngắn gọn “trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị…Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gai, Cẩm Phả”. Ngay cả cái tên nhân vật này cũng không có, chỉ được gọi theo quan hệ họ hàng với nhân vật chính. Ở gần cuối truyện, khi Thị Nở sau năm ngày ăn ở với Chí, đến ngày thứ sáu, sực nhớ mình còn người cô và “nghĩ bụng Hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã” thì nhân vật bà cô này mới hiện lên qua một ít suy nghĩ và hai lời thoại. Tất cả chỉ có vậy. Cho nên rất khó để dựng chân dung nhân vật chỉ là nhân vật rất phũ nhưng có thể nói, nhân vật bà cô này lại là một tình tiết bất ngờ, vô cùng quan trọng làm xoay chuyển toàn bộ câu chuyện cũng như cuộc đời nhân vật Chí Phèo. Chỉ một câu nói tàn nhẫn “Đã nhịn được đến bằng tuổi này thì nhịn hẳn, ai lại đi lấy thằng Chí Phèo” đã đụng chạm đến tận cùng đến lòng tự ái của một người đàn bà đã quá ba mươi, “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” và dở hơi, ế chồng. Chính câu nói cay độc vô ấy đã đoạn tuyệt một cách đau đớn một tình yêu vừa mới chớm, đã lạnh lùng cắt đứt sợi dây liên lạc cuối cùng giữa Chí với loài người. Bát cháo hành “mới thơm làm sao” chưa kịp đưa Chí từ thế giới loài quỷ quay về xã hội con người thì một câu nói cay nghiệt ấy coi như là dấu chấm hết cho mọi quá trình tái sinh trong Chí, đẩy Chí xuống tận cùng vực thẳm khổ đau và cái chết dữ dội. Có người bảo phải chi Nam Cao đừng xây dựng nhân vật này, hay ít nhất đừng để bà cô Thị Nở không xuất hiện ở cuối truyện thì câu chuyện sẽ kết thúc có hậu hơn biết mấy. Có thể là như vậy. Nhưng theo chúng tôi, nếu cắt đi chi tiết này thì Nam Cao không còn là chính ông nữa. Giá trị của Chí Phèo cũng vì thế giảm sút rất nhiều. Bởi cái chết của Chí với nhiều nguyên nhân, trong đó trực tiếp nhất là sự khước từ một cách thô bạo của bà cô Thị Nở, mang nhiều ý nghĩa. Riêng ở nhân vật người cô này cũng mang nhiều giá trị điển hết nhân vật này rất tiêu biểu cho câu thành ngữ của dân gian “giặc bên ngô không bằng bà cô không chồng” Còn có dị bản “giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng”. Bà cô Thị Nở đã ngoài năm mươi, hơn nửa cuộc đời mà vẫn không tìm được một tấm chồng. Trong mắt của người đàn bà khốn khổ ấy, chuyện chồng con của “con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời” “sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt…Nhục nhã ơi là nhục nhã”. Thái độ giãy nảy lên, những lời cay độc, “xỉa xói vào mặt con cháu gái” đã có hiệu quả ngay lập tức. Bởi bà cô này tự ái, uất ức bao nhiêu thì cháu bà càng tự ái, uất ức bấy nhiêu. Thậm chí cả khi Chí chết đi rồi, bà vẫn không tha cho cháu mình mà còn “chỉ vào mặt cháu mà đay nghiến”. Rõ ràng, thái độ, lời nói của nhân vật rất tiêu biểu cho những nét tính cách của những người phụ nữ lớn tuổi lận đận trong chuyện tình duyên. Xét cho cùng, nó mang nỗi ẩn ức tính nữ cả về tâm lí lẫn sinh lí mà biểu hiện rõ nhất là thái độ “không ăn được thì đạp đổ”, “trâu buộc ghét trâu ăn”. Bà cô không chồng trong truyện, xét ở phương diện nào đó, có thể xem là một điển hình. Tuy vậy, ở nhân vật này cũng có những điểm làm cho người đọc xót xa, tội nghiệp, thấy đáng thương hơn là đáng ghét. Ngòi bút nhân đạo Nam Cao không dừng lại ở lời nói, hành động nhân vật mà còn đi sâu mổ xẻ tâm trạng khi nhân vật rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trên. Nhà văn viết “Cũng có lẽ tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm…” Chỉ từng ấy thôi, ta cũng hiểu hết được nỗi đau thân phận phụ nữ không chồng trong xã hội cũ – xã hội thực dân nửa phong kiến cũng bất công, ngang trái không thua gì xã hội trước biệt, nhân vật bà cô Thị Nở rất điển hình cho người nông dân ở làng Vũ Đại ngày ấy nói riêng và làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng 1945 nói chung. Đó là một xã hội bị tha hóa toàn diện tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân. Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992. Nghiêm trọng nhất, đó là xã hội sống trong những định kiến nghiệt ngã. Trong cái làng đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ Đức Mậu, tài liệu đã dẫn ấy, người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh. Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một con quỷ dữ chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, mặc thây cha nó, coi như Chí không hề tồn tại trong cộng đồng “người” ấy. Cái định kiến hẹp hòi về nguồn gốc, gia cảnh, về những quãng đời u ám của Chí này có một sức mạnh ghê gớm, như bức tường vô hình cao ngất mà Chí khi được tình yêu Thị Nở tái sinh trở nên “thèm lương thiện”, “muốn làm hòa với mọi người biết bao”, tìm mọi cách vượt qua nhưng mãi không phá bỏ được. Ngay cả khi Chí chết đi một cách thảm khốc, người làng chẳng một ai tỏ ra xót xa cho Chí, dẫu một giọt nước mắt thương hại. Làng Vũ Đại là một điển hình cho làng quê nông thôn miền Bắc trước 1945. Trong cái làng quê nghèo nàn, tù túng và đầy những định kiến hẹp hòi, lạc hậu ấy, nhân vật bà cô Thị Nở được Nam Cao xây dựng thành công mang giá trị điển hình rõ nét. Những suy nghĩ của bà cô khi đứa cháu thưa chuyện “vợ chồng” với Chí Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ cũng như câu nói đay nghiến của bà cuối truyện với Thị Nở trước cái chết không ai ngờ được của Chí “Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo” đã nói lên tất cả. Bà cô không được mô tả nhiều nhưng qua những suy nghĩ, thái độ, ngôn ngữ của nhân vật này, hiện thực làng quê nông thôn Bắc Bộ trước 1945 còn mang nhiều định kiến nặng nề, lạc hậu đã được phản ánh, khái quát rất thành lại, không được miêu tả cụ thể, đầy đủ nhưng nhân vật bà cô Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao. Bên cạnh Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, nhân vật này cũng mang trong mình nhiều ý nghĩa điển hình như trên đã phân tích, do đó mang nhiều giá trị nội dung của tác phẩm. Xây dựng nhân vật này, Nam Cao đã sử dụng một ngòi bút sắc sảo, không tả nhiều nhưng giàu sức ám ảnh. Nhiều người thường nghĩ về nhân vật này với cái nhìn ác cảm, ghét bỏ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, suy cho cùng nhân vật bà cô Thị Nở cũng chỉ là nạn nhân của số phận, của chế độ xã hội cũ đen tối mà thôi. Nhân vật này đáng thương hơn là đáng ghét. Đây cũng là một biểu hiện của ngòi bút lấp lánh tình người, sáng ngời giá trị nhân văn của Nam Cao.🔻 Xem thêm Phân tích nhân vật Bá Kiến trong “Chí Phèo” của Nam CaoPhân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo Phân tích tiếng chửi của Chí Phèo mở đầu tác phẩm “Chí Phèo”Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo Chi tiết bát cháo hành trong truyện ngắn “Chí Phèo” – Nam CaoPhân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp thị Nở trong truyện ngắn “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao.
Sau cuộc gặp gỡ tình cờ với Thị Nở, phần lương thiện bên trong Chí Phèo được thức tỉnh, Chí khát khao và mong muốn được trở về với con đường lương thiện nhưng quá trình đó rất gian nan. Bài văn Phân tích tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở sẽ giúp các em thấy được thay đổi trong nhận thức và sự hồi sinh thần kì của phần “người” trong Chí khi gặp Thị. Bài viết liên quan Phân tích tâm trạng của Chí Phèo khi bị Thị Nở từ chối chung sống Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo từ buổi sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời để thấy rõ bi kịch của nhân vật này Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở Phân tích nhân vật Chí Phèo sau khi ra tù Phân tích nhân vật Thị Nở Đề bài Phân tích tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao6 bài văn mẫu phân tích chí phèo sau khi gặp thị nở hay nhất1. Phân tích tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, mẫu 1Nam Cao là một trong những tác giả hiện thực nổi tiếng trong trường phái hiện thực. Ông được mệnh danh là bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật, luôn đi tìm kiếm " con người trong con người". Tác phẩm của ông dù là viết về tri thức hay nông dân đều đi sâu vào bên trong nhân vật. Tác phẩm Chí Phèo là một trong những truyện ngắn nổi tiếng thể hiện tài năng của Nam Cao khi phân tích nhân vật Chí Phèo. Trong đó Nam Cao rất xuất sắc khi khắc họa tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Phèo xưa là đứa con hoang, bị bỏ tại cái lò gạch cũ và được người trong làng truyền tay nuôi. Chí hiền lành, làm người ở cho nhà Bá Kiến nhưng sau này, vì bị nghi ngờ dính líu với bà Ba nên hắn bị Bá Kiến vu oan phải vào tù. Sau khi về, chẳng còn ai nhận ra hắn vì nhân dạng đã biến đổi hoàn toàn. Hắn đinh ninh sẽ trả thù Bá Kiến nhưng rồi lại bị Bá Kiến mua chuộc làm tay đâm thuê chém mướn. Giờ đây hắn tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân cách trở thành một con quỷ của làng Vũ Đại. Nhưng rồi, khi Thị Nở xuất hiện, Chí đã thay đổi hoàn toàn bởi lần đầu tiên có người tự nguyện cho hắn thứ gì đó mà hắn không phải xin hay dọa tỉnh dậy sau cơn say, cảm nhận hết thảy tất cả những gì đang diễn ra trong buổi sớm mà từ trước đến nay hắn không hề hay biết. Để rồi hắn nhớ về quá khứ và ước mơ giản dị mà xa vời. Khi Thị Nở bưng bát cháo hành đến cho hắn, Chí rất ngạc nhiên , xúc động bởi lần đầu tiên hắn được chăm sóc , bởi bát cháo hành tỏa ra hương thơm ngào ngạt. Chắc rằng chỉ có hắn trong thời khắc ấy mới cảm nhận được vị ngon tuyệt vời của bát cháo và vị thơm của "tình người". Trong lòng hắn rung động, bâng khuâng trước Thị, người đàn bà xấu xí, dở hơi và ế chồng và cảm thấy ăn năn với Thị vì những chuyện mình đã làm trong quá khứ, khiến bao gia đình tan vỡ,... Dường như những cảm nhận khi ăn bát cháo hành ấy chính là cầu nối tâm hồn giữa Chí Phèo và Thị Nở. Trong hắn trào lên những cảm xúc khinh miệt khi nghĩ về con người Bà Ba, một con quỷ dữ đội lốt một người đàn bà xinh đẹp. Hắn thấy nhục và thấy khinh mọi hành động mà bà ta đã làm. Nghĩ về Thị Nở dù xấu ma chê quỷ hờn nhưng sẵn một lòng lương thiện, còn bà Ba kẻ ăn trắng mặc trơn lại là mặt người dạ thú. Nam Cao qua những khắc họa tâm trạng của Chí, tạo ra sự tương phản giữa hai người đàn bà đã cho ta một bài học khi nhìn nhận ai đó, nhất định không được " nhìn mặt mà bắt hình dong".Chí Phèo được Thị Nở chăm sóc, thức tỉnh bởi hương vị của cháo hành, hăn nhận thức được thực tại sau trận ốm này, hắn không còn mạnh như trước và muốn làm hòa với mọi người, hắn tin rằng Thị Nở chính là người mở đường cho hắn, sẽ giúp hắn bắc nhịp cầu đến bến bờ thiên lương. Trong nội tâm hắn bỗng tràn lên những khát khao hoàn lương mãnh liệt, cái mầm nhân tính trong Chí Phèo có thể bị che lấp bởi sự tha hóa nhân phẩm, bởi những con say và những lần rạch mặt đòi nợ thuê nhưng nó không hề bị mất đi. Dường như dưới ngòi bút sắc sảo am tường của Nam Cao, tính cách của Chí Phèo được hiện rõ và ông cũng thể hiện sự đồng cảm, thấu hiểu và luôn đặt niềm tin vào bản chất thiên lương ăn sâu trong tận xương tủy của những người dân lao động dù họ có bầm dập, bị tha hóa đến nhường có những khát khao hoàn lương, luôn có một mái ấm như bao người nhưng kết cục chẳng mấy tốt đẹp với Chí Phèo. Bởi hắn bị Thị Nở từ chối sống chung. Điều gì khiến Thị thay đổi đến vậy? Có lẽ không phải do Thị bạc tình, không muốn thành đôi với Chí mà do bà cô của Thị nói những lời độc địa, ngăn cấm Thị. Bà cô như một cái loa phát ngôn cho những thứ hẹp hòi, ích kỉ của người làng Vũ Đại và cả xã hội phong kiến đương thời. Chí Phèo chỉ còn biết ngẩn người trước lời của Thị Nở, trong hắn lại thoang thoảng hương cháo hành, dư vị tình yêu thoáng qua mong manh và yếu ớt. Tình yêu ấy không có sức mạnh để có thể vượt qua nổi thực tại trớ trêu. Dù hắn muốn níu kéo tình yêu nhưng chẳng thể làm được, đổi lại bản tính trong hắn lại trỗi dậy, đập gạch ăn vạ, uống rượu say khướt, hơi rượu không sặc sụa mà chỉ thấy thoang thoảng hương cháo hành. Đó là tình yêu ám ảnh cả tâm hồn lẫn thể xác của Chí. Hắn chỉ biết khóc, ôm mặt khóc như một đứa trẻ, đòi xách dao đi giết Thị Nở , giết bà cô nhưng thực chất hắn đến nhà Bá Kiến. Có thể nói hành động của Chí là sai đường nhưng đúng hướng. Hắn tuyệt vọng vì bị từ chối sống chung, cũng như từ chối làm người lương thiện. Hắn đau đớn biết bao vì lương chi đã tỉnh, ý thức sâu sắc thực tại rằng hắn bị từ chối nguyên nhân sâu xa không phải tại Thị Nở mà tại Bá Kiến, người xua tay đuổi hắn là cả những định kiến của người làng Vũ xách dao đến giết Bá Kiến cũng là lúc hắn tự kết liễu đời mình. Đó là một lựa chọn duy nhất để quay về. Tuy hắn không được sống như một người lương thiện nhưng hắn chết để làm người lương thiện. Quả thật, cái giá của thiên lương là cái giá cắt cổ đối với những kẻ như Chí, có lẽ phải đánh đổi bằng cả mạng sống của mình. Qua cái chết tức tưởi của Chí, Nam Cao lên án xã hội bất lương, tàn bạo và cảm thông với những người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Những người sống no đủ đã khó, sống thiên lương còn khó hơn bội phầnNam Cao, một nhà tâm lí tài ba với ngòi bút tinh tế, ông đã khắc họa tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở rất xuất sắc. Qua đó giúp độc giả có thêm những bài học nhận thức sâu sắc về con Phân tích tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, mẫu 2Nam Cao viết văn từ những năm 30 của thế kỉ XX nhưng đến năm 1941 ông mới khẳng định vị trí của mình trong nền văn học nước nhà bằng truyện ngắn Chí Phèo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, thuộc đề tài người nông dân nghèo. Tác phẩm viết về tấm bi kịch của nhân vật Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo gồm hai bi kịch nối tiếp nhau. Trước hết là bi kịch tha hóa từ một người lương thiện trở thành kẻ bất lương, thậm chí thành quỷ dữ. Tiếp nối là bi kịch bị từ chối làm người lương thiện. Đoạn mô tả từ buổi tối sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời thuộc bi kịch từ chối quyền làm Phèo nguyên là một đứa trẻ khốn khổ, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ bỏ không. Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho nhà lí Kiến. Đây là một canh điền khỏe mạnh, nhưng hiền lành như đất, không những hiền lành anh ta còn nhút nhát, chính Bá Kiến khi đó là lí Kiến đã tận mắt chứng kiến cảnh Chí Phèo vừa bóp đùi cho bà Ba vừa run run. Anh ta cũng có những ước mơ rất giản dị và lương thiện như trăm ngàn người nông dân khác là có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua thì mua dăm ba sào ruộng làm. Ở một xã hội bình thường, những con người như thế hoàn toàn có thể sống một cách lương thiện và yên ổn. Nhưng chỉ vì ghen tuông vu vơ, bá Kiến đã nhẫn tâm đẩy người thanh niên hiền lành, chất phác ấy vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào, sau 7- 8 năm đã biến một nông dân hiền lành, khỏe mạnh, lương thiện và tự trọng thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Từ đây, Chí Phèo bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Chí Phèo đã bị cướp mất hình hài của con người Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm... Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ... Không những thế tính cách Chí cũng khác hẳn khi xưa. Chí không còn là một anh canh điền ngày xưa mà bây giờ Chí là một thằng liều mạng. Hắn có thể làm tất cả mọi việc như một thằng đầu bò chính cống kêu làng, rạch mặt ăn vạ, đập phá, đâm chém...Dàn ý và bài văn mẫu phân tích Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở đạt điểm caoCứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Dưới ngòi bút sắc sảo của chủ nghĩa hiện thực, quá trình thức tỉnh lương tâm, nhân tính của một con người bị tha hóa, lầm lạc đã diễn ra không hề đơn giản, một chiều, dễ dãi mà do hoàn cảnh khá đặt biệt. Trong một lần say rượu không bình thường đã vô tình đưa Chí Phèo đến gặp thị Nở - một người đàn bà xấu xí và quá lứa lỡ thì. Lần say rượu đặc biệt ấy cùng với trận ốm thập tử nhất sinh đã khiến Chí Phèo có những biến đổi mạnh mẽ về cả tâm lí lẫn sinh lí. Thêm nữa, chút tình thương yêu mộc mạc, cử chỉ giản dị chân thành của thị Nở đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn sót lại nơi đáy sâu tâm hồn Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có bên trong con người lầm lạc. Lúc đầu, thị chỉ hấp dẫn Chí vì đơn giản thị là đàn bà, còn Chí là thằng đàn ông say rượu. Hai người ân ái với nhau thế rồi nửa đêm Chí Phèo đau bụng nôn mửa. Thị Nở dìu Chí Phèo vào nhà và đi nhặt nhạnh tất cả những manh chiếu rách đắp cho hắn. Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy khi trời đã sáng từ lâu. Và kể từ khi mãn hạn tù trở về đây là lần đầu tiên con quỷ dữ của làng Vũ Đại hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Chí thấy miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn. Lâu lắm hắn mới cảm nhận cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh bình dị tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót...Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, vì chỉ đến hôm nay hắn mới hoàn toàn tỉnh táo, các giác quan mới hoạt động bình thường. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo... Khi tỉnh táo, Chí Phèo nhìn lại cuộc đời của mình cả trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Trước hết, hắn nhớ lại những ngày rất xa xôi hắn mơ ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua năm sào ruộng làm. Mơ ước của Hắn thật nhỏ bé và giản dị nhưng suốt ba năm qua nó vẫn chưa trở thành hiện thực. Thì ra, những ước mơ tốt đẹp của Chí Phèo không hề bị mất đi mà nó chỉ chìm sâu vào một góc tăm tối nào đó của tâm hồn Chí. Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã già đã sang cái dốc bên kia cuộc đời, có thể đã hư hỏng nhiều thế mà hắn vẫn đang cô độc. Tương lai của hắn lại đáng buồn hơn, bởi hắn có quá nhiều sự bất hạnh đói rét ốm đau và cô độc. Đối với Chí, cô độc còn đáng sợ hơn nhiều đói rét và ốm đau. Từ khi đi tù về, Chí bao giờ cũng say, say vô tận. Giờ đây lần đầu tiên hắn tỉnh táo suy nghĩ nhận thấy tình trạng bi đát, tuyệt vọng của cuộc đời lúc Chí đang vẩn vơ nghĩ mãi thì Thị Nở mang một nồi cháo hành còn nóng nguyên vào. Việc làm này của Thị Nở đã khiến Chí rất ngạc nhiên và xúc động đến mức trào nước mắt bởi vì đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một người đàn bà cho. Hắn thấy cháo hành của thị Nở không như bát cháo hành bình thường mà trong đó còn hàm chứa tình yêu thương chân thành của thị dành cho hắn. Và như vậy, cũng có nghĩa hàm chứa cả hạnh phúc lứa đôi mà lần đầu tiên Chí cảm nhận được. Còn đối với Thị Nở, đây là bát cháo hành tình nguyện, bát cháo hành đem cho, đem tặng, bát cháo hành tình yêu, mở đầu cho hạnh phúc gia đình. Một mặt, bát cháo hành thể hiện tình cảm chan chứa nhân đạo của nhà văn. Mặt khác, nó cũng thể hiện tài năng nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao. Nếu như ban đầu, người đàn bà xấu xí, quá lứa lỡ thì, lại dở hơi ấy chỉ khơi lại cái bản năng ở Chí Phèo thì sau đó điều kì diệu đã xảy ra, sự săn sóc đầy ân tình và yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện tiềm ẩn trong con người Chí Phèo. Bát cháo hành của Thị Nở là món quà quý giá nhất mà lần đầu tiên Chí cảm nhận được trong đời mình. Hắn ăn và nhận thấy rằng cháo hành rất ngon. Hương vị cháo hành hay hương vị của tình yêu thương chân thành cảm động, của hạnh phúc giản dị mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo?Khi ăn bát cháo hành, Chí Phèo trở lại là anh canh điền ngày xưa và thấm thía nỗi đau của con người biết tự trọng khi bị vợ Bá Kiến sai làm những việc nhục nhã. Điều này chứng tỏ một lần nữa Chí Phèo có bản tính tốt lành, nhưng cái bản tính này trước đây bị lấp đi đến nay mới có cơ hội được thể hiện, bởi vì Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện có bản tính tốt đẹp. Mặc dù bị xã hội tàn ác - đại diện là bá Kiến và nhà tù thực dân dẫu có ra sức hủy diệt bản tính ấy nhưng nó vẫn âm thầm sống trong đáy sâu tâm hồn Chí Phèo, ngay cả khi nhân vật này tưởng chừng đã biến thành quỷ dữ. Khi gặp Thị Nở và cảm nhận được tình yêu mộc mạc chân thành của thị trong lúc yếu đuối và cô đơn, lại trong hoàn cảnh vừa qua một trận ốm thì bản chất ấy có cơ hội hồi sinh và nó đã hồi sinh. Từ đây, Chí sống đúng với con người thật của mình khao khát tình thương và muốn trở thành những người lương đường trở lại làm người lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo đã bị đóng sầm lại. Sự mong ước được sống hiền lương của Chí Phèo một lần nữa lại không thành sự thật. Thị Nở không thể giúp gì thêm cho hắn, bởi lẽ bà cô thị kiên quyết ngăn cản mối tình này. Bà không thể đồng ý cho cháu bà đâm đầu đi lấy thằng Chí Phèo - con quỷ dữ của làng Vũ Đại, bấy lâu nay chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ, hắn mãi mãi chỉ là con quỷ dữ, không bao giờ có thể làm người. Cách nhìn nhận của bà cô thị cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí. Tất cả quen coi anh là quỷ dữ mất rồi. Nên hôm nay lương tri anh thức tỉnh, linh hồn người của anh đã trở về nhưng nào có ai nhận ra? Cho nên Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần vô cùng đau đớn - bi kịch bị cự tuyệt làm người lương thiện. Các hy vọng được sống với Thị Nở, sâu xa hơn là hy vọng được quay về với cuộc đời lương thiện như một đóm lửa vừa mới được nhóm lên thì đã bị ngay một gáo nước lạnh dội vào cho tắt ngấm. Mặc dù, khi nghe những lời bà cô mắng thì thị Nở thấy lộn ruột nhưng cũng phải nghe theo. Và thị đã giận dữ nói lại với Chí Phèo tất cả những lời của bà cô. Điều này khiến Chí ngẩn người vì thất vọng nhưng nhưng này có lẽ hắn chưa tuyệt vọng vì lúc đó hắn lại như hít thấy hơi cháo hành. Chí ngẩn người ra vì cay đắng, chua xót trước một sự thật phũ phàng mọi người đã cự tuyệt, không chấp nhận, dứt khoát không còn hắn là một con người. Mùi cháo hành vẫn thoang thoảng đâu đây khiến hắn lại càng thêm đau xót, thấm thía. Hắn thấy rõ mọi con đường đều đang đóng chặt trước mặt hắn. Khi thị ra về, hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay nhưng thị gạt ra. Điều đó chứng tỏ Chí luôn luôn khao khát tình yêu, thiết tha đến với Thị Nở, đến với cuộc đời lương thiện. Từ đây, Chí đã thấm thía sâu sắc bi kịch của con người sinh ra làm người nhưng không được làm người. Chí vật vã, đau đớn và tuyệt vọng. Thật là lạ khi thấy Chí ôm mặt khóc rưng rức. Những giọt nước mắt đau đớn, hối hận nhưng đã quá muộn màng. Không còn cách nào khác, Chí lại tìm đến rượu. Nhưng vì ý thức đã trở về, lần uống rượu này của Chí khác biết bao nhiêu lần uống rượu trước. Hắn càng uống lại càng tỉnh ra, hắn không ngửi thấy mùi rượu mà chỉ nghe thoang thoảng mùi cháo hành, càng uống càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân cơn khủng hoảng và bế tắc, Chí Phèo lại càng thấm thía hơn tội ác của kẻ đã cướp đi của mình cả bộ mặt và linh hồn con người. Chí đã xách dao ra đi. Hành động muốn đi trả thù của Chí rất dữ dội, quyết liệt khiến Chí đi đến một hành động đâm chết cả nhà nó. Nhưng nó là ai? Tiềm thức mách bảo Chí đó là Bá Kiến. Trước đó, Chí không định đến nhà bá Kiến mà định đến nhà Thị Nở để đâm chết thị và bà cô thị cho hả giận nhưng cuối cùng Chí lại quên đến nhà Thị Nở mà đến nhà bá Kiến. Khi đến nhà bá kiến, Chí trợn mắt chỉ tay vào mặt lão, đanh thép kết tội tên cáo già này đòi làm người lương thiện, đòi một bộ mặt lành lặn. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo Ai cho tao lương thiện? là câu hỏi chất chứa niềm phẫn uất, đau đớn, còn làm day dứt người đọc làm thế nào để con người sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Thế rồi, Chí đâm chết kẻ thù. Hành động của Chí đã vượt khỏi suy nghĩ của tên địa chủ nổi tiếng khôn ngoan, gian hùng. Đây là cách hành động của người say không theo dự kiến ban đầu, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, Chí lờ mờ hiểu ra nguyên nhân sâu xa đâu phải vì Thị Nở hay bà cô thị mà cái kẻ làm ra Chí như thế này chính là Bá Kiến. Đến đòi quyền làm người lương thiện là phải đòi nơi lão bá, không đòi được thì phải trả thù. Tuy làm tay sai cho Bá Kiến nhưng ngọn lửa căm hờn vẫn âm ỉ cháy trong con người Chí Phèo. Khi Chí Phèo đã thức tỉnh thì hắn hiểu ra nguồn gốc bi kịch của mình nên ngọn lửa căm hờn càng bùng lên dữ dội. Do vây, Chí Phèo đâm chết bá Kiến không hẳn vì say rượu mà chính vì mối thù đã bừng cháy. Cái chết của Chí chứng tỏ Chí khao khát trở về cuộc sống lương thiện. Vì vậy cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ cái xã hội thực dân nửa phong kiến không những đẩy người dân lương thiện vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ vào cái nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Đồng thời qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo cái xã hội thực dân phong kiến xã hội đó cướp đi những gì Chí Phèo có và đã cướp những gì Chí Phèo muốn. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Ngoài ra, tác phẩm còn đặt ra một vấn đề nhân sinh mang tính triết lí sâu sắc làm thế nào để con người sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo phi nhân tính đương thời. Với thành công của truyện ngắn này, Nam Cao đã trở thành cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện thực 1930 - Phân tích tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, mẫu 3Tình yêu - một chủ đề quen thuộc nhưng không bao giờ cũ trong văn chương. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ lấy tình yêu làm cảm hứng sáng tác cho mình. Họ ca ngợi, họ tôn vinh tình yêu như những thiên thần có cánh. Nhưng Nam Cao lại khác, với tình yêu nghiệt ngã của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm "Chí Phèo" viết về người nông dân trong xã hội cũ, ông đã cho mọi người chứng kiến một tình yêu hoàn toàn mới. Ở đó hạnh phúc có, khổ đau cũng có. Nhưng trên hết, tình yêu ấy còn là thông điệp sâu sắc mà nhà văn muốn nhắm đến cả một giai cấp, một tầng lớp người trong xã hội. Tình yêu ấy, đẹp thật đẹp mà đau cũng thật đau khiến cho người trong cuộc là Chí Phèo đã vật lộn và cuối cùng đi đến cái chết. Nhưng ít nhất, trước khi chết, Chí Phèo cũng đã kịp hưởng thụ hương vị của tình yêu dù chỉ là trong những ngày ngắn Phèo chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ được dân làng nuôi nấng. Lớn lên Chí làm người ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm đãng hãm hại khiến Bá Kiến ghen đẩy vào tù. Những năm tháng tù đày cùng với lòng thù hận đã khiến Chí từ một chàng thanh niên hiền lành tốt tính trở thành một con quỷ dữ khi trở về làng. Chí đắm mình trong những cơn say. Cho đến một ngày Chí gặp Thị, tình yêu sét đánh gắn kết hai con người với nhau. Nhưng trong lúc đang lâng đang hạnh phúc thì Thị nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí khiến Chí một lần nữa rơi vào tuyệt vọng. Lòng hận thù trong Chí lại nổi lên và Chí quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình để được làm người lương diễn biến trong cuộc đời Chí chẳng khác nào tấm bản đồ lúc lên lúc xuống. Và trong đó, những phút giây được ở cạnh Thị Nở chính là đoạn đường đẹp nhất, sáng nhất trong cả tấm bản đồ chằng chịt những nét đứt gãy khúc khuỷu, gập văn mẫu phân tích Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở của học sinh giỏiCuộc gặp gỡ của Chí và Thị chỉ là sự tình cờ giữa hai con người mê muội. Chí lúc tỉnh lúc say, mà hầu như là chẳng tỉnh bao giờ. Còn thị cũng ngù ngờ, dở hơi. Đã thế, nhà văn lại ban cho ả một "nhan sắc" "kinh tởm" mà ông tóm gọn trong mấy từ "xấu ma chê quỷ hờn". Ấy vậy mà khi gặp nhau, cái xấu ấy lại làm một cho một người đàn ông chết mê chết mệt. Có thể vì bản năng, vì dục vọng thể xác mà họ ngã vào nhau. Nhưng sau khi thỏa mãn, họ lại dành cho nhau những thứ tình cảm thật "lạ lùng". Lạ đến mức người đàn bà dở hơi ấy đã xác định được đây chính là cuộc sống "vợ chồng". "Hai từ vợ chồng nghe ngường ngượng nhưng mà thinh thích". Đây đúng là tâm lý của kẻ mới yêu, đang yêu và đang hạnh Chí, sau trận ấy, Chí bị ốm. Một trận ốm nặng mà nếu không có Thị, Chí sẽ chết mất. Thị dù có dở hơi, nhưng tấm lòng vẫn thánh thiện khi dành cho Chí một bát cháo hành với ý nghĩ giúp Chí mau khỏe mạnh. Có lẽ Thị là người cuối cùng còn sót lại trong xã hội này còn nhìn nhận đến Chí. Hoặc do thị ngù ngờ nên không phân biệt được đâu là người, đâu là quỷ dữ nên mới chấp nhận con người Chí. Nhưng dù gì đi chăng nữa, những ân cần săn sóc của Thị cũng đã mang một làn gió mới đến với cuộc đời Chí. "Bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan hắn lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn!". "Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu... Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau". Những dòng suy nghĩ của Chí cho thấy rằng Chí hoàn toàn rất khôn ngoan, rất có ý thức sống. Chỉ là do trước đây vì đắm chìm trong men rượu nhiều quá nên Chí không còn nghĩ ngợi tới nữa. Một con người đã trải qua quá nhiều biến cố trong cuộc đời, dòng suy nghĩ hẳn là chín chắn và thấu đáo hơn rất nhiều. Chí biết tiếc cuộc sống, biết nhận ra cuộc đời mình lúc này đang ở trong tình trạng như thế nào và mình cần phải sống ra sao. Chí buồn vì đã để cuộc đời chìm trong cơn say quá nhiều. Và cũng hận khi đã tự chôn vùi đời mình trong thù hận. Những dòng suy nghĩ ấy làm Chí bừng tỉnh và sống lại ước mơ nhỏ bé nhưng giản đơn và thánh thiện ngày nào của mình. Chí ước có một gia đình nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn. Vợ dệt vải thêu thùa. Cuộc sống ấy tuy nghèo, tuy thiếu thốn nhưng sẽ hạnh phúc biết bao. Và giờ đây Chí muốn tiếp tục thực hiện ước mơ ấy cùng Thị Nở. Chí sẽ làm lại từ đầu, làm hòa với mọi người. Chí đang rất tỉnh. Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí không biết rằng người đàn bà ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hơn. Nhưng lúc này, khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có tình yêu mới khiến con người ta cảm hóa những cái xấu thành cái đẹp. Chí thấy thị có duyên lắm. Và Chí đang rất vui khi được ở cùng thị. Chí đâu có say. Chính vì Chí tỉnh nên Chí mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của tình yêu. Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nữa của Chí. Đó là lòng nhân hậu lớn lao vô cùng. Bởi trong làng ai cũng nhìn Thị bằng con mắt khinh thường và cho rằng Thị chỉ là một người dở hơi. Mà đúng là thị dở thật. Cũng chính vì dở nên Thị mới để cho Chí ngã vào. Nhưng khi tỉnh táo, tình thế đã đảo ngược lại. Lúc này Chí là người khôn ngoan và hoàn toàn bình thường. Nhưng Chí không hề chê bai thị, cũng chẳng xua bỏ thị. Mà ngược lại, Chí còn muốn gắn bó cả đời với thị, cùng thị xây dựng ước mơ ngày nào còn dang dở của rồi, hạnh phúc ấy chẳng được bao lâu, những dự định của Chí cũng vụt tắt khi Thị trở về nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí. Chí một mình ở lại trong căn lều in dấu bao kỷ niệm về tình yêu của mình. Thất vọng, khổ đau và lòng thù hận lại nổi lên. Nhưng lần này, Chí tỉnh rồi, Chí không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Chí đến thẳng nhà Bá Kiến để đòi lại quyền sống của mình. Sống nhưng lại là chết. Chết để giữ được bản chất lương thiện của bản thân. Chí giết Bá Kiến rồi cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Phải đi đến quyết định ấy, hẳn là Chí đau khổ lắm. Nhưng với Chí lúc này, đó là cách duy nhất để không quay lại cuộc sống nghiệt ngã như trước kia vậy, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí đã liên tiếp xảy ra hai biến cố lớn. Một là tỉnh - tỉnh dậy sau những cơn say dài triền miên. Tỉnh để sống, để yêu và hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy không được bao lâu thì biến cố thứ hai lại xảy đến khi thị trở mặt với Chí, khiến Chí tiếc nuối khôn nguôi. Trong cơn tuyệt vọng Chí giết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Không phải vô tình mà Nam Cao lại dàn dựng nên những dòng tâm lý trắc ẩn cho Chí, mà trong đó là những thông điệp sâu xa mà ông muốn gửi gắm đến người nhất là hình ảnh về người nông dân nghèo khổ, bất hạnh bị xã hội đẩy đưa đến bước đường cùng. Đến ngay cả cái hạnh phúc của bản năng con người họ cũng không có được. Cho đến khi có được thì lại nhanh chóng vụt bay cũng chỉ vì định kiến xã hai, nhà văn muốn đề cao nhân phẩm, phẩm chất của con người. Chí dù say, nhưng khi tỉnh hắn vẫn luôn mang một tâm hồn trong sáng với tấm lòng nhân hậu tinh khiết. Đặc biệt, là Thị Nở - bên trong người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ấy lại chính là một tâm hồn cao cả. Suýt chút nữa Thị cũng đã bị vùi dập giống như Chí. Hai cong người cùng chung cảnh ngộ ngã vào nhau, cùng làm cho nhau tìm lại chính bản thân ba, Nam Cao đã đưa người đọc đến với một tầm cao mới của tình yêu. Đó là tình yêu không chỉ dừng lại ở xác thịt mà ở tình yêu còn là sự đồng điệu của hai tâm hồn. Yêu không vì vẻ bề ngoài, cũng không vì vật chất cao sang. Yêu chỉ vì yêu, vì trái tim. Nhưng dù yêu đến thế nào đi nữa, tình yêu cũng không thể vượt qua giới hạn của thực tế. Ở đây, thực tế của Chí Phèo - Thị Nở chính là những định kiến nghiệt ngã về một tên quỷ dữ đội lốt người mang tên Chí tư, là sự minh mẫn, sự thức tỉnh trong tình yêu. Tình yêu dù vui buồn hay hạnh phúc, nhưng thứ mà con người ta cần phải giữ vững là tinh thần, là trí óc. Ở đây, sau khi thức tỉnh, Chí vẫn giữ vững tình cảm của mình với thị. Ngay cả sau khi bị thị chối từ, Chí vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Chính vì thế Chí mới đi đến quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự vậy, chỉ bằng một đoạn văn ngắn kể lại diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, nhà văn đã gửi gắm những thông điệp có ý nghĩa sâu xa tới người đọc. Nam Cao không còn, và cuối tác phẩm Chí Phèo cũng chết nhưng những dòng xúc cảm của một con người lần đầu tiên tỉnh rượu đã đánh động tâm hồn mọi người tự ý thức mình, tự nâng niu, trân trọng những gì mình đang có trong cuộc sống cũng như trong tình Phân tích tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, mẫu 4Nam Cao sinh năm 1917 mất năm 1951, tên khai sinh là Trần Hữu Tri sinh ra trong một gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân tỉnh Hà Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo sâu sắc, vừa mới mẻ vừa độc đáo. Các sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng sáng ngời. Nổi bật lên là tác phẩm " Chí Phèo", tác phẩm là sự kết tinh tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Đặc biệt với biệt tài phân tích diễn biến tâm lý nhân vật, Nam Cao đã cho mọi người thấy được diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở cho đến hết tác từ thuở nhỏ, Chí Phèo đã có hoàn cảnh đáng thương. Vốn là đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa, nhờ chén cơm của người làng Chí lớn lên trở thành anh thanh niên tốt bụng, giàu lòng tự trọng. Năm 20 tuổi, Chí làm canh điền cho Lý Kiến rồi bị Lý Kiến hãm hại đẩy vào tù. Ở tù raChí bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính, từng bước biến thành tay sai cho Bá Kiến, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tưởng rằng Chí Phèo sẽ vẫn tiếp tục với cuộc sống của một con quỷ dữ nhưng không, trong một lần tình cờ gặp Thị Nở, Thị đã đánh thức bản chất lương thiện sâu trong con người một lần say, Chí gặp Thị họ đã ăn nằm với nhau rồi cùng say ngủ dưới ánh trăng. Đến nửa đêm Chí đau bụng, Thị dìu hắn vào trong lều đắp chăn cho hắn rồi ra về. Đến sáng hôm sau, cũng như nhiều người say tỉnh dậy, Chí cảm thấy miệng đắng, toàn thân uể oải, chân tay thì bủn rủn. Hay là đói rượu? nhắc đến rượu hắn thấy rùng mình, người nao nao khó chịu "Hắn sợ rượu giống như những người ốm sợ cơm, tiếng chim hót ngoài kia vui tai quá! Tiếng cười nói của người đi chợ... Những tiếng quen thuộc này ngày nào mà chả có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, chao ôi là buồn!"Rồi hắn nghe thấy cuộc đối thoại của mấy bà đi chợ, hắn nao nao buồn bởi chúng nhắc cho Chí một cái gì đó xa xôi. Hình như đã có thời hắn ước mơ một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, một cuộc sống hạnh phúc giản dị được xây dựng bằng chính bàn tay lao động của mình. Tỉnh dậy hắn thấy mình già mà vẫn còn cô độc, buồn thay cho đời! Có lẽ nào? Hắn già rồi ư? Hình như Chí Phèo nhìn thấy trước được cuộc sống sau này của mình ốm đau, đói rét, cô độc, cái này còn đáng sợ hơn tuổi già, ốm đau, đói cách tự nhiên mọi suy nghĩ của Chí lại hướng về thị Nở. Khi thị bước vào với bát cháo hành hắn " ngạc nhiên", " mắt hình như ươn ướt". Bởi vì, đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho. Ăn bát cháo hành được trao từ bàn tay ấm lòng đầy tình thương của Thị Nở , hắn cảm động và phục sinh linh hồn. Hương vị bát cháo hành hay hương vị của tình thương và cảm động, hạnh phúc giản dị Chí Phèo được hưởng đã đánh thức bản chất lương thiện vùi dập bấy lâu của ơi! Hắn muốn làm người lương thiện, hắn thèm được lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, mọi người sẽ nhận lại hắn vào cuộc sống lương thiện này. Hắn đặt niềm tin hi vọng vào thị hi vọng vừa mới hé mở đã đóng lại ngay bởi sự trở lại của lương tri đã đẩy Chí đến đỉnh điểm bi kịch. Chí đã tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn linh hồn người để rồi trở thành hiện thân của quỷ dữ. Thủ phạm chính là Bá Kiến, nhưng tham gia còn có định kiến xã hội lực lượng không kém phần tàn nhẫn đẩy Chí đến cùng quẫn bế tắc. Đại diện cho định kiến xã hội ấy là bà cô của thị Nở, bà kiên quyết ngăn cản mối tình này làm cho con đường trở lại làm người lương thiện của Chí bị chặn đứng. Chí bị thị Nở cự tuyệt, bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt . Đau đớn đến tột cùng Chí mang rượu ra uống nhưng " càng uống lại càng tỉnh", " tỉnh ra chao ôi buồn". Chí đã cố níu kéo Thị lại nhưng Thị đã đi, đã ngồi "ôm mặt khóc rưng rức" và rồi hắn quyết định đi trả thù kẻ mà gây cho hắn ra nông nổi này. Ban đầu Chí định đi giết chết cả nhà thị Nở, giết con cọm già đã ngăn cản hắn. Nhưng trong tiềm thức Chí nhận ra rằng kẻ đã cướp đi quyền làm người, bộ mặt lẫn linh hồn mình là Bá Kiến chứ không phải ai khác. Thế rồi trong cơn say Chí xách dao đi tìm Bá Kiến, rồi đâm chết Bá Kiến. Chí hỏi đời " Ai cho tao lương thiện"? Trả thù rồi thì sao, sự thật không thay đổi được nữa rồi Chí tự sát, tuy chết mà vẫn uất ức vẫn muốn nói gì đó mà không thốt thành cái chết bi kịch của Chí chứng tỏ ý thức, nhân phẩm của Chí đã trở lại. Nó thể hiện sự khát khao được sống lương thiện của Chí Phèo và cũng là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội phong kiến thực dân tàn bạo không những dồn người nông dân vào đường cùng mà còn đẩy họ vào chỗ chết. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện ra và miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay cả khi họ biến thành thú dữ. Đồng thời, tác giả đã đưa ra lời cầu cứu khẩn thiết hãy bảo vệ con người, bảo vệ quyền lợi của mỗi cá nhân trước những thế lực xấu xa của cuộc phần tạo nên thành công của tác phẩm, tác giả đã xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Phân tích và miêu tả diễn biến tâm trạng, nội tâm nhân vật tinh tế. Ngôn ngữ tự nhiên, sử dụng khẩu ngữ, giọng điệu đan xen, cách trần thuật linh hoạt. Kết cấu truyện linh hoạt, giàu kịch tính, hấp phẩm " Chí Phèo" là kiệt tác văn xuôi Việt Nam hiện đại, nó thể hiện trình độ bậc thầy về truyện ngắn Nam Cao. Qua tâm trạng nhân vật Chí Phèo tác giả cho ta thấy rõ bi kịch " Sinh ra là người mà không được làm người" đồng thời thể hiện rõ khát khao lương thiện của con người và bế tắc của hiện thực xã hội bấy Phân tích tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, mẫu 5Số phận khốn khổ của người nông dân là đề tài quen thuộc của văn học hiện thực 1930-1945. Là một cây bút sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, Nam Cao có những tìm tòi, đổi mới đáng trân trọng. Không dừng lại ở nỗi khổ sưu cao thuế nặng như các tác phẩm cùng thời "Tắt đèn", "Bước đường cùng", Nam Cao đi sâu vào hiện tượng người nông dân bị tha hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Đồng thời, Nam Cao phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân bị tha hóa. Những sáng tạo của Nam Cao được kết tinh từ nhân vật Chí Phèo. Đặc biệt là trong những trang văn diễn tả tâm trạng Chí Phèo từ sau khi gặp Thị thể nói, dấu mốc quan trọng nhất tạo nên bước ngoặt quyết định trong cuộc đời Chí Phèo đó là cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở, từ cố nông lương thiện, Chí bị đẩy xuống và nhấn chìm trong vũng bùn tha hóa. Sau khi gặp Thị, Chí đã vực dậy rũ bùn tha hóa, thức tỉnh hoàn lươn. Vậy Thị Nở là ai? Là người như thế nào mà lại có tác động lớn lao đến cuộc đời Chí Phèo như vậy? Theo ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở là người xấu ma chê quỷ hờn, ngẩn ngơ như người đần trong truyện cổ tích. Lại sinh ra trong gia đình nghèo truyền kiếp, có mả hủi. thị chẳng khác gì con vật lạ. Nhưng Thị lại là người duy nhất trong làng Vũ Đại vô tình, vô cảm ấy đã tự nguyện kết thân yêu thương Chí chân thành. Dĩ nhiên, không phải ngay từ khi gặp Thị, tâm hồn Chí đã thức tỉnh, cái lốt quỷ dữ được lột bỏ. Là một nhà văn am tường sâu sắc tâm lí nhân vật, Nam Cao đã khám phá, miêu tả, phân tích diễn biến nội tâm của Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở một các chân thực, sống động và đầy xúc văn mẫu phân tích Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở ngắn gọn, hay nhấtBan đầu, cuộc chung chạm với Thị Nở chỉ đánh thức bản năng gã đàn ông cho Chí Phèo. Nhưng sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã làm bản chất lương thiện trong con người Chí thức dậy. Tâm hồn Chí Phèo dần thức tỉnh rồi hối sinh mãnh liệt. Nhưng ngay sau đó, Chí Phèo lại lâm vào bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời mình, là bi kịch từ chối, cự tuyệt quyền làm người. Sau đêm ái ân với Thị Nở, Chí Phèo tỉnh dậy muộn, hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Sau bao nhiêu năm sống trong u mê dằng dặc, lần đầu tiên những cảnh vật, âm thanh của cuộc sống bỗng dội vào tâm hồn Chí tạo nên những vang động sâu xa. Chí thấy nắng rực rỡ, tiếng chim hót vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng anh thuyền chèo đuổi cá. Lòng Chí bâng khuâng, mơ hồ rượu rồi Chí tỉnh ngộ, từ chỗ tê liệt ý thức, Chí bỗng ngộ ra bao điều về đời mình. Chí đã có cái nhìn chính xác về cuộc đời dằng dặc của mình từ quá khứ, hiện tại, tương lai. Nghĩ về những ngày xa xôi, Chí nao nao buồn. Hình như có một thời, Chí ao ước có một gia đình nho nhỏ , chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải... Nhưng ước mơ nhỏ bé giản dị ấy đã tuột khỏi tay Chí từ lúc nào, về phương trời xa xăm nào. Ngẫm về hiện tại, Chí thấy buồn thay cho đời. Chí đã già, đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời mà vẫn cô độc, trắng tay. Chí không nhà, không cửa, không vợ, không con. Đời chí đâu chỉ là con số 0 tròn trĩnh mà còn là con số âm khủng khiếp, đời Chí chồng chất biết bao nhiêu là tội ác. Tương lai phía trước còn đáng buồn hơn. Chỉ có tuổi già đói rét, ốm đau và cô độc. Và chí sợ nhất là sự cô độc, mà sợ cô độc nghĩa là Chí thèm khát tình người. Thèm khát tình người đồng nghĩa với việc là tính người đang trở lại trong thể nói ''Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí sau đêm gặp gỡ với Thị Nở là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của ngòi bút Nam Cao". Không chỉ dừng lại ở đó, những diễn biến tâm trạng vô cùng phức tạp tinh vi của Chí Phèo đã được nhà văn diễn tả chân thực, chính xác, tài tình đến cảm động. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được bộc lộ sâu sắc mới mẻ và lớn Phân tích tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, mẫu 6Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Trong đó nổi bật hơn cả phải nhắc đến tác phẩm "Chí Phèo". Tác phẩm là sự kết tinh của tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực sắc sảo và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn. Đặc biệt, diễn biến tâm trạng và hành động của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở đến lúc tự tay cầm dao kết liễu đời mình là một thành công lớn trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam từ thuở ấu thơ, Chí Phèo đã có hoàn cảnh vô cùng đáng thương. Sinh ra trong một lò gạch, nơi không được coi là ngôi nhà, Chí thậm chí còn không biết cha mẹ mình là ai, chỉ cô độc lớn lên như thế dưới bàn tay chăm sóc mà thiếu tình thương của mọi người trong làng. Tuy vậy, ông trời vẫn cho Chí bản chất lương thiện, giàu lòng tự trọng cùng ước mơ mái ấm gia đình thật bình dị. Nhưng rồi, nhà tù thực dân đã biến một người tốt thành một tên lưu manh, rồi lại bị Bá Kiến, tên địa chủ cường hào già đời đục khoét biến tiếp thành con quỷ dữ. Bị tước mất quyền làm người, đời Chí tàn rồi trượt dài qua những cơn say rượu triền miên. Duy chỉ khi gặp được Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thật sự tỉnh rượu, tỉnh cả tâm tính của một con người với bản chất lương thiện dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn đầu, cuộc gặp gỡ của Chí Phèo với thị Nở chỉ là sự chung chạ do cái bản năng của người đàn ông bị rượu đánh thức. Đến sáng hôm sau, cũng như bao người say tỉnh rượu khác, hắn cảm nhận chính xác được cảm giác miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn. Nhưng với Chí, đây là cảm giác, cảm xúc khi vừa được đánh thức không chỉ mỗi cơn say. Có lẽ lâu lắm rồi hắn mới cảm nhận được cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh quen thuộc tiếng người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót, ánh nắng rọi vào cái lều nát...Tất cả những hình ảnh, âm thanh ấy khi nào mà chả có, nhưng đây là lần đầu tiên Chí có thể cảm nhận được, bởi rước giờ hắn chưa từng hết say. Nhịp sống trở lại đưa Chí Phèo nhớ lại quá khứ xa xôi với những ước mơ bình dị như biết bao người dân quê khác. Chí mơ ước có một gia đình nhỏ, một cuộc sống gia đình hạnh phúc được tạo dựng từ bàn tay lao động cần cù của chính mình. Rồi Chí nghĩ đến hiện tại, nghĩ về tương lai cô độc với tuổi già đau ốm...hắn càng và càng lo hơn, bởi nửa cuộc đời từng trải đủ để hắn hiểu được cô độc còn đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau. Đó lần đầu tiên hắn trở lại làm người, suy nghĩ , lo lắng như một người nông dân nghèo bản chất lương thiện. Một cách tự nhiên, mọi suy nghĩ của Chí Phèo lại hướng về thị Nở, khi Thị bước vào lều với bát cháo ngoa khi nói rằng, thị xấu, xấu lắm, thị xấu đến ma chê quỷ hờn. Vậy mà sự chăm sóc của thị dành cho Chí sao mà ân cần, chân thành, mộc mạc đến thế. Ấy nên khi nhận bát cháo hành xoàng xĩnh đó, Chí phèo vừa húp vừa khóc "thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt". Đúng thế, trong Chí giờ đây tồn tại rất nhiều tâm trạng khác nhau, trước hết là ngạc nhiên, đến vô cùng. Hắn thật không thể nghĩ đến, không thể ngờ. Một người như Chí, nỗi sợ hãi và căm ghét của cả dân làng, là con quỷ làng Vũ Đại trước giờ muốn ăn thì chỉ có giành lấy cướp lấy của người khác. Vậy mà giờ đây, có người đem đến cho hắn, đến gần hắn mà không sợ hãi hay căm ghét và còn mang lại đời sống mới cho hắn. Sau đó, sự cảm động đến mức không thể kìm nén dâng trào hình như hắn khóc. Đây là lần đầu tiên Chí được người ta chăm sóc, lại bởi bàn tay của một người đàn bà. Có thể sự chăm sóc của Thị là một cử chỉ bình thường của một con người dành cho một con người. Thế nhưng đối với Chí phèo, đây là lòng tốt hiếm hoi, duy nhất mà Chí được hưởng từ ngày về làng. Chí cũng cảm thấy thật bâng khuâng, vừa vui vừa buồn, như là ăn năn, hối hận vì những việc ác mà mình đã làm. Nhưng với hiện tại như bây giờ, Chí tràn ngập niềm vui mới mẻ. Hắn thấy lòng như trẻ con, muốn làm nũng thị như bao đứa trẻ làm nũng mẹ. Rồi như một lẽ tự nhiên bất chợt, Chí thấy "thèm lương thiện, muốn làm hoà với mọi người biết bao! Mong muốn thị Nở sống chung..." Vậy là hương vị bát cháo hành, nụ cười tin cẩn cùng với tình người mộc mạc đơn sơ đã đánh thức bản chất trong trắng, lương thiện của anh canh điền năm xưa. Khi tỉnh rượu cũng chính là lúc Chí Phèo bắt đầu tỉnh ngộ, lại khao khát một gia đình hạnh phúc, một cuộc sống thiện lương sẽ được thực hiện cũng thị Nở. Thì ra, trong bản chất của con quỷ dữ làng Vũ Đại vẫn là một con người rất đáng thương luôn khao khát được làm người lương thiện, chính tình thương giữa người với người đã làm thức tỉnh điều niềm vui của Chí Phèo không kéo dài được bao lâu, sự trở về của lương tri lại nhanh chóng đẩy Chí Phèo đến đỉnh điểm của bi kịch. Chí phèo đã bán đi nhân hình lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn linh hồn người để rồi trở thành hiện thân của con quỷ dữ - cực điểm của sự tha hoá. Thủ phạm là Bá Kiến, nhưng tham gia vào đó còn có định kiến của xã hội - lực lượng không kém phần tàn bạo, đẩy Chí đến cùng quẫn, bế tắc. Đại diện cho định kiến xã hội ấy chính là bà cô của Thị Nở. Bà ta đã kiên quyết ngăn cản mối tình này khiến con đường trở lại làm người lương thiện của Chí Phèo bị chặn đứng. Đối diện với sự tàn bạo của xã hội, tình người thoáng thật mong manh và dễ bị tiêu tan. Và đúng như vậy, Chí Phèo lại bị cự tuyệt. Hắn bị một người xấu đến tột bậc cự tuyệt, bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt. Chí "ngẩn người", "sửng sốt", "gọi thị lại, nắm lấy tay"nhưng không được. Đau đớn cùng cực, Chí Phèo mang rượu ra uống nhưng "càng uống càng tỉnh ra" và "tỉnh ra, chao ôi, buồn". Rượu không thể làm tê liệt tâm trí của hắn nữa, rượu chỉ càng làm cho hắn thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. Hắn "ôm mặt khóc rưng rức và quyết định trả thù kẻ đã gây cho hắn ra nông nỗi này". Lúc đầu Chí tính giết cả nhà Thị, hay không cũng ăn vạ kêu làng cho bẽ mặt cái con đĩ thị đó. Thế nhưng trong tiềm thức từ cơn say, Chí nhận ra Bá Kiến mới chính là kẻ cướp đi quyền làm người, bộ mặt người và linh hồn của hắn. Đây có thể coi là giây phút tỉnh táo nhất của Chí từ khi ra tù về, tỉnh táo để xác định kẻ thù "Ai cho tao lương thiện ?",tỉnh táo để thể hiện mong muốn cháy bỏng của bản thân "Tao muốn làm người lương thiện !" và tỉnh táo với sự thật phũ phàng trước mắt "Tao không thể làm người lương thiện được nữa". Những câu nói ấy như vừa thể hiện quyết tâm trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, bế tắc của Chí Phèo. Chí dõng dạc kết án Bá Kiến, và đâm chết hắn. Nhưng trả thù rồi thì sự thật vẫn không thể thay đổi. Cuối cùng, Chí Phèo chỉ còn con đường duy nhất là cái chết để được giải thoát, để chấm dứt cái bi kịch khốn cùng vì bị cự tuyệt quyền làm người này. Vì thế hắn tự đâm mình, chết mà vẫn uất ức, vẫn muốn nói ra điều gì đó trong khát vọng bao thuở của hắn nhưng không thể phát thành chết bi thảm của Chí Phèo chứng tỏ ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về. Nếu trước đây để bám lấy sự sống, Chí phải bán rẻ linh hồn thì hiện tại, để được sống như một con người đúng nghĩa, Chí phải từ bỏ mạng sống của mình. Cái chết của Chí cũng chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc. Nó thể hiện niềm khát khao cháy bỏng được sống lương thiện của Chí Phèo và cũng là lời tố cáo mãnh liệt xã hội thực dân phong kiến không những đẩy người nông dân vào con đường cùng bần hoá, mà còn đẩy họ vào chỗ chết. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện và miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay khi họ đã bị biến thành thú dữ, và trả một cái giá đắt để quay lại làm người. Qua đó, nhà văn gửi gắm lời kêu cứu khẩn thiết Hãy cứu lấy con người, bảo vệ quyền được làm người của mỗi cá nhân trước mọi thế lực xấu xa của cuộc sống. Đây chính là chiều sâu tư tưởng và là giá trị nhân đạo của tác đoạn văn không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn cả về nghệ thuật kết cấu truyện vô cũng chặt chẽ, logic; tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu kịch tính, ngôn ngữ sống động, linh hoạt. Có thể đáng giá, đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau đêm gặp gỡ Thị Nở là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của Nam Cao. Và một câu hỏi lớn được đặt ra làm thế nào để con người được sống một cuộc sống con người? Điều đó chẳng những Bá Kiến không hiểu nổi mà cả xã hội bấy giờ cũng không thể trả lời được. Sự day dứt, bức thiết của câu hỏi ấy cũng chính là nét đặc sắc nhất đánh dấu "Chí Phèo" trở thành một trong những văn xuôi bậc nhất của văn học hiện đại Việt cạnh Phân tích tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở các em cần tìm hiểu thêm những nội dung khác như Phân tích tình yêu trong Chí Phèo của Nam Cao, bài tóm tắt chí phèo hay phần Phân tích Tiếng chửi của Chí Phèo nhằm củng cố kiến thức của mình.
3 Bài văn mẫu lớp xin gửi tới bạn đọc bài viết Cảm nhận về câu nói của bà cô Thị Nở trong truyện Chí Phèo để bạn đọc cùng tham khảo và có thêm tài liệu học tập nhé. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết và tải về tại nhận về hình ảnh giọt nước mắt của Chí PhèoSo sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ1. Dàn ý cảm nhận về câu nói của bà cô Thị NởI. Mở bài- Giới thiệu về câu nói của bà cô Thị Nở Trong lời nói của bà cô với THị nở, câu nói “đàn ông đã chết cả rồi hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng chồng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ” không chỉ mang đến nỗi tuyệt vọng cùng cực cho Chí Phèo mà còn mang đến bao suy tư, day dứt cho độc Thân bàiTruyện ngắn Chí Phèo đã phản ánh chân thực hiện thực xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám, xã hội chà đạp lên quyền sống, quyền lương thiện của người nông dân nghèo.– Chí Phèo vốn là anh canh điền hiền lành, lương thiện nhưng số phận đưa đẩy khiến Chí Phèo sa chân vào con đường tù tội rồi trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại.– Đến khi gặp được Thị Nở, Chí đã được thức tỉnh về nhân tính, Chí nhớ về những giấc mơ bình dị của ngày trẻ và khát khao lương thiện.– Con đường trở lại đó nào được dễ dàng, những định kiến nghiệt ngã vẫn vây hãm lấy cuộc đời Chí, mà đại diện cho tất cả những định kiến ở đây chính là qua lời nói của nhân vật bà cô Thị Nở.– Khi Thị đi hỏi bà cô về ý định về chung một nhà với Chí, bà cô đã không những không đồng ý mà còn “ném” vào mặt Thị những lời mắng chửi tàn nhẫn, thậm tệ nhất.– Câu nói thể hiện sự nghiệt ngã đến tàn nhẫn của những định kiến.– Những lời của bà cô Thị Nở nói không sai, Chí Phèo là "thằng không cha không mẹ”, ngay từ nhỏ Chí đã bị bỏ rơi bên cái lò gạch bỏ hoang.– Bản chất lương thiện của Chí cũng được đánh thức nhờ Thị Nở, người đàn bà xấu xí, dở hơi.– Chí khát khao hạnh phúc, khát khao lương thiện, khát khao được làm hòa với mọi người. Thế nhưng câu nói “quay đầu là bờ” có thể đúng trong nhiều trường hợp nhưng lại chẳng thể ứng nghiệm với cuộc đời Chí.– Lời nói của bà cô Thị Nở cũng như lời chối bỏ phũ phàng Kết luận- Câu nói của bà cô Thị Nở không chỉ chặn đứng con đường lương thiện mà Chí khát khao quay đầu lại mà còn mang đến bao day dứt, suy tư cho độc giả. Câu nói cũng như lời tố cáo đối với xã hội phong kiến đã đẩy con người đến bước đường cùng không thể thoát Cảm nhận về câu nói của bà cô Thị Nở mẫu 1Truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao ngay từ khi ra đời đã lập tức đưa tên tuổi của nhà văn Nam Cao trở thành một trong những nhà văn xuất sắc nhất của nền văn học phê phán những năm 1930-1945. Hơn thế nữa nó đã trở thành một tác phẩm được xem là kiệt tác của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Có được thành công như vậy chính là nhờ vào những nguyên mẫu có thực ở làng Đại Hoàng quê tác giả, mà thông qua ngòi nghệ thuật xuất sắc, Nam Cao đã xây dựng nên những nhân vật có một không hai, gây ấn tượng sâu sắc với người đọc, tạo thành một câu chuyện với cốt truyện hấp dẫn, có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Cuộc đời của Chí Phèo là chuỗi những bi kịch dài và nối tiếp, trong đó đớn đau và khổ sở nhất ấy chính là bi kịch bị từ chối quyền làm người, bị từ chối quyền hạnh phúc. Bà cô của Thị Nở đã có một câu nói với cháu gái khiến người đọc không khỏi thấy day dứt, xót xa cho nhân vật Chí Phèo rằng "Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ".Cuộc gặp gỡ với Thị Nở chính là định mệnh của Chí Phèo, cuộc gặp gỡ đầy nhân văn ấy dường như đã đánh thức trong tâm hồn Chí Phèo một phần nào đó lâu nay vẫn ngủ quên, vẫn bị nhấn chìm bởi men rượu, bởi những tiếng chửi rủa chán chường. Lúc này người ta mới nghĩ lại, mới nhớ lại rằng, Chí Phèo của trước kia cũng hiền lành, chăm chỉ như bao người nông dân khác, thế nhưng cái xã hội phong kiến thối nát, với những con người quan quyền cậy thế, chỉ vì chút ghen tuông dở hơi mà đẩy một chàng trai hiền lành vào chốn ngục tù khổ sở. Ai biết được trong bảy tám năm ấy đã xảy ra những chuyện gì với Chí Phèo, người ta chỉ thấy sau khi ra tù Chí Phèo đã trở thành người khác, với cái bộ dạng mà cả làng đều nhất trí "trông gớm chết". Ai ai cũng ghê sợ Chí Phèo, con người ta hình thành hẳn trong mình những cái định kiến ghê gớm, vững chắc, kẻ biết chuyện cũng như không biết chuyện thì đều mặc định cho mình một suy nghĩ, Chí Phèo là kẻ lưu manh, đáng sợ, phải xa lánh hắn ta. Chính điều đó đã chặt đứt đi cái con đường hoàn lương của Chí trở lại với cuộc gặp gỡ định mệnh với Thị Nở, họ đã ăn nằm với nhau trong một đêm trăng, rồi ngủ thiếp đi, sau đó Thị Nở dìu Chí Phèo về căn lều của hắn và ra về. Lúc Chí Phèo tỉnh lại, dường như đã có một cái gì thay đổi, hắn ở trong căn lều tối tăm ẩm thấp lờ mờ nhưng vẫn có thể tưởng tượng ra "nắng bên ngoài chắc là rực rỡ", hắn nghe thấy "tiếng chim ríu rít bên ngoài". Tất cả những thứ ấy đều là những điều mà bấy lâu nay hắn chẳng hề cảm nhận được, bời vì hắn bận say! Người vốn vẫn chìm đắm trong men rượu như Chí Phèo mà cũng có ngày sợ rượu, lần đầu tiên trong suốt gần chục năm đằng đẵng hắn mới lại thấy được tiếng huyên náo của cuộc sống và thậm chí hắn còn thấy vui vẻ. Bát cháo hành của Thị Nở, sự quan tâm chăm sóc của một người đàn bà dở hơi, xấu xí thế mà lại đánh thức cái tâm hồn ham sống, mong muốn làm lại cuộc đời của Chí Phèo, hắn cũng có ước vọng điền viên, ước vọng có một gia đình nho nhỏ, nhưng giờ đã ở bên kia dốc của cuộc đời liệu có muộn lắm không? Hắn nghĩ lẽ cuộc đời của Chí Phèo đã thực sự thay đổi và thậm chí có được hạnh phúc với Thị Nở, nếu như thị chẳng dở hơi mà có suy nghĩ "Hay mình dừng yêu để hỏi cô đã", thế rồi bi kịch của Chí Phèo lại tiếp diễn. Tiếp diễn bởi chính cái định kiến cay nghiệt mà người đời đã dành cho hắn. Con đường trở về với lương thiện, cái khát khao muốn được hòa vào cuộc sống, được sống như con người đã bị chặn đứng lại bởi những lời chua chát, xuất phát từ bà cô của Thị Nở, kẻ đại diện cho thái độ, định kiến của xã hội, cho cả làng Vũ Đại với Chí Phèo. Bà cô già, lại còn ế chỏng chơ của Thị Nở, trước thiết nghĩ bà ta cũng chẳng thương yêu gì cô cháu dở hơi của mình, mà có lẽ bà tự thấy "tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dài dằng dặc của bà, không có chồng. Bà chua xót lắm. Bà uất ức, uất ức với ai không biết". Cái uất ức, cái ích kỷ yếu hèn của con người khiến bà ta đổ hết lên đầu cháu mình, toan phá tan cái hạnh phúc chớm nở của cô cháu, bà ta cần gì biết cháu lấy ai, nhưng với sẵn cái định kiến khốn nạn về một thằng Chí Phèo không cha, một thằng chuyên rạch mặt ăn vạ, bà ta cứ luôn mồm mà xả không thương tiếc. Những câu nói tuy không phải là dao nhưng cắt vào lòng người những vết sâu hoắm, ấy là lưỡi dao định kiến tàn nhẫn của xã hội phong kiến đương thời. Một khi nó đã mặc định điều gì, thì kẻ đó chỉ có thể chịu chết bị đóng đinh với cái định kiến đó đời đời kiếp kiếp, bị người ta xa lánh, người ta sợ hãi hay gì đó mà cứ chấp nhất nhất tin vào cái xấu chứ chẳng bao giờ tin vào điều kỳ diệu của tạo hóa, chẳng tin vào sự thức tỉnh lương tri của Chí Phèo không cha, không mẹ là lỗi của hắn sao? Liệu có ai còn nhớ Chí Phèo trong hình dáng của một anh canh điền hiền lành chất phác, liệu có ai biết rằng tại sao cuộc đời Chí lại bê bết như bây giờ, liệu có ai thèm đếm xỉa đến nỗi oan khuất đi tù 7, 8 năm của Chí? Không, không một ai cả, họ chỉ trực chờ chăm chăm nhìn vào cái xấu, cái tệ hại nhất của con người ta để mà ra sức xỉ vả vùi dập, thậm chí vô tình đã tước đi cái quyền được làm người, được vui sống. Bà cô của Thị Nở chính là tiêu biểu trong số ấy, phải bà đau đớn, chua xót vì không có được hạnh phúc gia đình, thế nhưng cớ gì phải ngăn cản cháu mình là Thị Nở. Bà ta đã không thể mở lòng, không thể suy nghĩ một cách tích cực rằng Chí Phèo sẽ thay đổi và Thị Nở ít ra cũng hơn bà có được hạnh phúc, bởi lý trí của bà ta bị che mờ bởi sự ích kỷ, bởi những định kiến cay nghiệt mà người đời gán cho Chí Phèo. Thế là hết, giấc mơ quay lại làm người lương thiện, giấc mơ điền viên của Chí và thị đã tàn, đã bị chặn đứng một cách phũ phàng bởi lời của bà cô. Cũng lúc này đây, trong tuyệt vọng, trong cơn say Chí Phèo mới nhận ra chỉ có chết mới là con đường duy nhất giải thoát cho hắn khỏi bể khổ này, hắn đã sống lê lết ở cái cuộc đời này hơn 40 năm, thế nhưng đi đâu người ta cũng khinh ghét hắn, tiếng hắn chửi với tiếng chó sủa hòa vào nhau, có lẽ đã từ lâu lắm người ta đã chẳng còn coi hắn là con người, thì lấy đâu ra cái gọi là hạnh phúc, lương thiện, tình yêu?Câu nói đầy cay nghiệt của bà cô Thị Nở chính là đại diện cho những định kiến đến tàn nhẫn của xã hội phong kiến mục nát lúc bấy giờ đối với Chí Phèo. Nó đã chặn đứng hết tất cả ước mơ, hy vọng, lương tri vừa mới được đánh thức của Chí, dồn Chí đến bước đường cùng, lựa chọn cuối cùng là cái chết để giải thoát. Phân cảnh, lời nói của bà cô khiến cho người đọc không khỏi xót xa, day dứt về một kiếp người bất hạnh, chồng bất hạnh thất thểu, lay lắt bước ra từ những trang sách của nhà văn Nam Cảm nhận về câu nói của bà cô Thị Nở mẫu 2Chí Phèo là truyện ngắn xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao cũng là tác phẩm hiện thực có giá trị bậc nhất của nền văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Trong truyện, Chí Phèo là con người bị tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân tính để trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại, Trước tình thương của Thị Nở, Chí Phèo đã thức tỉnh nhân tính và khát khao trở về với con đường lương thiện. Tuy nhiên, con đường đi lương thiện của Chí, giấc mơ về ngôi nhà hạnh phúc của Chí và Thị vốn chẳng dễ dàng. Sự ngăn cấm của bà cô Thị Nở là đại diện cho những định kiến của người dân làng Vũ Đại. Trong lời nói của bà cô với THị nở, câu nói “đàn ông đã chết cả rồi hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng chồng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ” không chỉ mang đến nỗi tuyệt vọng cùng cực cho Chí Phèo mà còn mang đến bao suy tư, day dứt cho độc ngắn Chí Phèo đã phản ánh chân thực hiện thực xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám, xã hội chà đạp lên quyền sống, quyền lương thiện của người nông dân nghèo. Chí Phèo vốn là anh canh điền hiền lành, lương thiện nhưng số phận đưa đẩy khiến Chí Phèo sa chân vào con đường tù tội rồi trở thành con quỷ dữ làng Vũ từ khi trở thành tay sai của Bá Kiến, trở thành con quỷ dữ bị cả làng chối bỏ quyền làm người, Chí Phèo đã quen đối mặt với cuộc sống không mục đích, đơn độc, triền miên trong những cơn say. Đến khi gặp được Thị Nở, Chí đã được thức tỉnh về nhân tính, Chí nhớ về những giấc mơ bình dị của ngày trẻ và khát khao được trở về với con đường lương thiện, muốn xây dựng một gia đình nhỏ hạnh phúc với Thị nhiên, con đường trở lại đó nào được dễ dàng, những định kiến nghiệt ngã vẫn vây hãm lấy cuộc đời Chí, mà đại diện cho tất cả những định kiến ở đây chính là qua lời nói của nhân vật bà cô Thị Nở. Khi Thị đi hỏi bà cô về ý định về chung một nhà với Chí, bà cô đã không những không đồng ý mà còn “ném” vào mặt Thị những lời mắng chửi tàn nhẫn, thậm tệ nhất. Câu nói để lại nhiều suy nghĩ nhất cho độc giả “đàn ông đã chết hết hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng ko cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ “. Câu nói thể hiện sự nghiệt ngã đến tàn nhẫn của những định lời của bà cô Thị Nở nói không sai, Chí Phèo là” thằng không cha không mẹ”, ngay từ nhỏ Chí đã bị bỏ rơi bên cái lò gạch bỏ hoang. Tuổi thơ bất hạnh của Chí phải đi ở hết nhà này đến nhà khác, đến khi đã trở thành một anh thanh niên khỏe mạnh thì lại bị đẩy vào tù vì những ghen tuông vớ vẩn của Bá Kiến. Nhà tù thực dân đã làm thay đổi bản tính của Chí từ một anh canh điền lương thiện trở thành kẻ lưu manh bặm trợn, khi Chí Phèo đồng ý làm tay sai cho Bá Kiến thì hắn ta đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ của Chí chỉ có rạch mặt ăn vạ, một mình Chí đã làm bao gia đình tan cửa nát nhà, phá hỏng bao cơ ngơi. Chí Phèo đã bị cả làng Vũ Đại xa lánh ghét bỏ, không ai đáp lại tiếng chửi của Chí như cách để phủ nhận sự tồn tại của Chí trong làng Vũ đại. Thế nhưng, bản chất lương thiện của Chí cũng được đánh thức nhờ Thị Nở, người đàn bà xấu xí, dở khát khao hạnh phúc, khát khao lương thiện, khát khao được làm hòa với mọi người. Thế nhưng câu nói “quay đầu là bờ” có thể đúng trong nhiều trường hợp nhưng lại chẳng thể ứng nghiệm với cuộc đời cuộc đời mình, Chí đã gây ra rất nhiều tội ác, sai lầm nhưng ngay cả khi đã hối lỗi, muốn trở lại làm người lương thiện thì con đường Chí phải đi cũng chẳng hề dễ dàng. Lời nói của bà cô Thị Nở cũng như lời chối bỏ phũ phàng nhất. Khi nghe lại những lời chửi mắng của bà cô qua lời của Thị Nở, Chí Phèo bỗng nhận ra rằng con đường lương thiện của mình đã không thể trở lại. Để giải thoát cho tất cả những bi kịch chỉ có thể là cái nói của bà cô Thị Nở không chỉ chặn đứng con đường lương thiện mà Chí khát khao quay đầu lại mà còn mang đến bao day dứt, suy tư cho độc giả. Câu nói cũng như lời tố cáo đối với xã hội phong kiến đã đẩy con người đến bước đường cùng không thể thoát Cảm nhận về câu nói của bà cô Thị Nở mẫu 3Tác phẩm văn học cũng như một con quay hồi chuyển mà mỗi mặt,mỗi bề của nó đều tác động vào ta những giá trị tinh thần cao đẹp. Một câu thơ hay làm cho ta thấy cuộc đời thêm ý nghĩa, một nội dung hay khiến ta xuýt xoa, một đoạn văn tả cảnh ấn tượng khiến tâm hồn ta bay bổng lâng lâng, có khi chỉ một câu nói của nhân vật cũng làm ta day dứt mãi không nguôi. Chẳng hiểu sao mỗi lần gấp trang sách lại tôi cứ nhớ mãi cái bộ mặt của bà cô Thị Nở nói với cháu mình "đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng chồng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ" lại càng không thể quên khuôn mặt già nua khắc khổ, đầy lo toan, đầy nước mắt nhưng lại hồn hậu, dịu dàng trong tình yêu thương đồng loại của bà cụ Tứ "thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng".Nam Cao viết Chí Phèo năm 1941 và nhanh chóng trở thành đỉnh cao của văn học hiện thực phê phán. Chí Phèo là nhân trung tâm của tác phẩm với một cuộc đời cùng hơn cả dân cùng. Bị cả xã hội cự tuyệt, quăng quật cho ra rìa, sống một cuộc sống vật vờ không đáng sống cho đến một ngày kia có một người đàn bà đã bước vào cuộc đời của hắn. Hắn vẫn quen chiếm đoạt miếng ăn và người đàn bà kia tất nhiên cũng là do hắn chiếm đoạt mà có được ấy thế nhưng chúng lại rất có duyên với nhau như trời sinh một cặp và chắc chắn chúng sẽ lấy nhau nếu như không có một ngày kia, cái "con khọm già" bà cô thị nở không buông lời trách mắng cháu bà "đàn ông.........ăn vạ". Ô hay, cái thằng không cha thì có sao đâu nhỉ? Một sao hắn lại phải làm nghề rạch mặt ăn vạ cơ chứ? Câu chửi ngoa ngoắt ấy khiến ta lật ngược chiếc đồng hồ cát để quay về quá khứ tìm hiểu về con người đúng Chí Phèo là thằng không cha, không mẹ cuộc đời hắn tưởng như đã chết bên cái lò gạch bỏ hoang ấy rồi nếu như không gặp được những con người tốt bụng làng Vũ đại đem về cưu mang, nuôi dưỡng cái tuổi thơ bất hạnh lang thang đi ở cho nhà người ấy càng làm cho bản tính mồ côi càng thêm hiền lành như đất. Để rồi ít lâu sau đó người ta bỗng đâm hoảng trước thái độ hung hãn mất hết nhân tính của chí khi mãn hạn tù đội lốt quỷ dữ, tác oai tác quái cho dân làng' làm chảy máu và nước mắt của biết bao người dân lương thiện'. Hắn chỉ biết rượu và máu-hai thứ không thể thiếu đối với một con quỷ dân làng có thể khóc quỷ chỉ có thể cười trên nổi đau của người khác. Và cứ thế hắn say-say rượu và say tội Cao đã để hắn vùng vẫy khá lâu trong sự tuyệt vọng, trong cô đơn của quỷ khi cả làng Vũ đại ai cũng 'tránh mặt mỗi lần hắn qua'. Cô đơn đến nỗi mà ngay cả tiếng chửi của mình mà cũng chẳng có tiếng người đáp lại, chỉ tiếng chó cắn là có thật. Và Nam Cao lạnh lùng đến thế là có ai đó đã nói rằn văn Nam Cao như văn Lỗ Tấn, cái bình thuỷ ấy, bên ngoài lạnh, bên trong thì nóng người đọc cũng chẳng phải chờ lâu, bởi Nam Cao vốn là một nhà nhân đạo chủ nghĩa, "thiên sứ" cứu rỗi linh hồn chí mà ông phái đến chính là Thị Nở phải nói thị là thiên thần mới đúng, bởi với một kẻ như Chí Phèo khi đã cạn tình yêu thương, thì chỉ cần một chút yêu thương chạm khẽ cũng đủ để hắn thức rằng, cái xã hội lạnh lùng ấy đã rủ bỏ hắn, cái xã hội đã đẩy hắn đến hố thẳm đường cùng ấy đã không mảy may bố thí cho hắn dù chỉ là một chút tình yêu thương thì Thị Nở chính là thiên thần của tình ngắn ngủi của một kẻ cô đơn Thị Nở và một con quỷ dữ đã xích lại gần nhau tình người. Hai con người khốn khổ bị ném về hai phía tận cùng khổ đau, oái oăm thay lại chính là hai kẻ thắp sáng lên niềm hi vọng trong nhau. Chí đã hồi sinh sau cơn say dài vô tận, chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình có mặt trên đời thì bỗng một ban mai thức dậy cảm thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn'. Lại nghe được những thanh âm vang động của cuộc sống thường nhật, từng tiếng, từng tiếng một gõ nhịp vào tâm hồn 'chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá tiếng mấy bà đi chợ về'. Những âm thanh ấy thật bình dị, thật đời thường biết mà hôm nay hắn mới nghe được. Nó tựa hồ như dòng suối mát chảy vào thớ đất khô hạn của tâm hồn cằn cỗi. Như vùng đất sỏi đá, cằn khô bất chợt gặp mưa rào. Bấy lâu nay, vùng đất tâm hồn hắn chỉ uống vào bằng thứ 'nước' máu và nước mắt của người dân lương thiện thì hôm nay thanh âm cuộc sống chính là thứ nước thánh diệu kỳ gội rửa tội lỗi và thanh lộc tâm hồn cho hắn, đánh thức trong hắn vùng kí ức đã chết, hồi sinh cả vùng tâm hồn trong hiện tại và thức dậy cả một viễn cảnh đói rét, ốm đau và cô độc phía nhớ trong tiểu thuyết 'nhà thờ đức bà Paris 'của nhà văn có đoạn Esméralda bị Quasimodo bắt cóc nhưng may mắn nàng được giải cứu. Còn Quasimodo thì bị nhốt vào lồng bêu trước công chúng vốn nhân từ, Esméralda bỏ qua vụ bắt cóc và đã đem nước cho Quasimodo uống trông lúc hắn bị xử phạt trên đài bêu vì tội bắt cóc và gây rối loạn ban đêm. Tâm hồn hoang dã của Quasimodo từ lâu không quen giao tiếp với thế giới con người, chỉ biết cha nuôi là phó giám mục Frollo, người đã đem hắn về nuôi khi hắn còn là một quái thai dị dạng bị bỏ trước cửa nhà thờ. Vẻ đẹp và tấm lòng của Esméralda đã làm thức tỉnh trái tim hoen gỉ của hắn. Quasimodo bắt đầu yêu,một tình yêu bất diệt không cần đền đáp thì nay trong Chí Phèo, bát cháo hành của thị cũng đã làm chí được đánh thức, đánh thức từ khứu giác, đến vị giáo, đến cả xúc giác và cuối cùng là thức tỉnh cả tâm hồn, nhân phẩm. Bát cháo của thị như liều thuốc giải độc đã tẩy ố đi men rượu, góp phần tỉnh rượu và tỉnh ngộ. Giờ đây hắn là người, con người với ý nghĩa đẹp nhất. Nhà văn đã để cho thị nở thốt lên 'ôi chao sao mà hắn hiền. Ai bảo đó là cái thằng Chí Phèo chỉ biết rạch mặt ăn vạ'. Thị đúng là cơn gió mát lành thổi vào cuộc đời của Chí, là ngọn lửa ấm sưởi ấm quãng đời nguội lạnh của thổi đi tro tàn, bụi bặm của một cuộc đời đầy những khổ đau, lửa sẽ đốt bỏ lớp vỏ quỷ dữ, hong khô bao ngày cô lẻ với tấm thân mòn úa hoang tàn. Thị đã khơi dậy trong chí khao khát được làm người, khao khát được trở về cái xã hội bằng phẳng, được làm hòa với mọi người, khao khát tình đồng sao bà cô thị nở lại không?Ở đây Nam ao muốn lên án cái định kiến hà khắc của xã hội, định kiến cổ hủ, tàn khốc, là sợi dây thòng lọng vô hình, giết chết bao người. Trong tác phẩm 'thời thơ ấu' của Nguyên hồng, có đoạn chú bé Hồng vì thương mẹ mà chú bé căm ghét những hủ tục phong kiến đã đọa đày mẹ 'giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh, đầu mâủ gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiền cho nát vụn mới thôi'. Như vậy, cổ tục,định kiến là những thứ tồn tại ngàn đời trong xã hội, nó giống như ung nhọt khó cắt bỏ. Và nó chính là cánh cửa ngăn cách con đường trở lại làm người của lại tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Một khi rượu không đủ sức làm lu mờ lý trí của con người thì nó sẽ quay ngược trở lại làm thức tỉnh lý trí của con người. Chí Phèo bây giờ là thế càng uống hắn càng tỉnh hay nói đúng, rượu làm hắn say, hơi cháo hành làm hắn tỉnh bởi hắn thấy 'thoang thoảng hơi cháo hành' rồi hắn bưng mặt có biết khóc bao giờ. Vậy thì nước mắt là dấu hiệu của con người. Hắn là người thật kiến tàn nhẫn của bà cô cũng là định kiến hà khắc của xã hội cũ. Lời nói của thị nở như cứa vào tim gan của hắn một vết vết đau đủ nhắc cho hắn một sự trở -sự trở về của thiên lương, của nhân phẩm. Hắn chợt nhận ra tất cả nỗi đau và thân phận; bất hạnh và trắng tay. Chợt nhận ra nổi khổ của mình, một con người sống giữa loài người nhưng không được công nhận là con người. Vậy nên tất cả lời của bà cô mà thị nở trút lên hắn trở thành nỗi nhục nhã và cũng từ đó hắn chợt nhận ra thân tỉnh rượu đánh thức cả sự tỉnh ngộ để nhận ra cá̉ cuộc đời dài dằng dặc trước kia đã bán mình cho quỷ dữ. Và hắn đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống lương thiện, trên một vũng máu tươi mà sự cảm thông chỉ là nước mắt của bạn đọc nhỏ xuống hai dòng lệ vì một kiếp người phù sinh giữa cõi nhân nhiên, cần hiểu rằng lời nói của bà cô ko phải là tất cả để dẫn đến cái kết cục bi thảm của Chí Phèo. Lời nói ấy chỉ là công đoạn cuối cho một kết thúc mà cái kết dường như đã được báo trước. Vậy nên, lời nói ấy vừa vô tình vừa không vô tình, vừa đáng trách lại vừa không đáng truyện ngắn 'vợ nhặt' của Kim Lân, nhà văn vốn quen với thuần hậu phong thủy. Đề tài nông thôn thật quen thuộc trong trang viết của ông nhưng đề tài năm đói và những con người nhân hậu bao dung với nhau cu hướng đến tương lai là mới. Dễ gì hai mẹ con nhà tràng ngấp nghé bên bờ vực của cái chết lại có thể nhận thêm một miệng ăn vào lúc này, lại sẵn lòng cưu mang, lại sẵn lòng đi đến xây dựng hạnh phúc, đám cưới trong đám ma, liệu có thật không. nhưng có lẽ việc một người mẹ âm thầm cố giấu một dòng nước mắt, cố nói với các con ''thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng" là một điều rất thật, có nói ấy làm chúng ta nhận ra đằng sau đó là cả một tấn bi hài, một tình huống truyện dở khóc dở cười của một phu xe tên tràng và một cô ả lang thang. Một lần đẩy xe, một lần được mời ăn của người đàn bà đã xe duyên cho một mối tình mà cái đói chính là nguyên nhân dẫn đến tất thì cần hạnh phúc, người đàn bà thì cần miếng ăn. Thành ra, hai cành củi khô ấy đã trôi dạt vào nhau, mắc cạn vào cuộc đời nhau, rồi tất cả đưa nhau đến chỗ khó xử đến tột cùng. Xóm ngụ cư ngạc nhiên, bà cụ Tứ - mẹ Tràng ngạc nhiên, ngay cả Tràng là người trong cuộc cũng càng ngạc nhiên hơn ngạc nhiên vì hắn chỉ tầm phơ tầm phào có đôi ba bận thế mà thành vợ thành chồng. Xóm ngụ cư ngạc nhiên vì 'giời đất này còn rước cái của nợ ấy về'. Bà cụ tứ ngạc nhiên vì nhiều lẽ con bà xấu, ế vợ, nhà lại nghèo… nó có vợ quả là điều không tưởng vào lúc này .Vậy nên, bà 'đứng sững lại', 'phấp phỏng bước theo con vào trong nhà', 'hấp háy cặp mất cho đỡ nhoèn'… Bấy nhiêu ngôn ngữ cũng đủ để diễn tả sự rối bời trong tâm hồn người mẹ ấy. Bà đã mất đi sự nhạy cảm vốn có của người mẹ. Vì con cái lớn khôn, đến tuổi dựng vợ gả chồng, mẹ phải đủ nhạy cảm để hiểu điều ở đây, cái đói đã cướp mất đi sự nhạy cảm ở mẹ. Vậy nên, hình ảnh người mẹ trở nên tội nghiệp hơn bao giờ khi hiểu ra cơ sự, người mẹ ấy đã nhẹ nhàng, âu yếm 'ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng'. Cái 'mừng lòng' của người mẹ chứa đựng trong đó là cả niềm vui, nổi buồn,niềm xót tủi thân tủi phận vì 'làm mẹ nhưng không lo nổi cho con'. Câu nơi ấy cũng đã làm nổi bật hình ảnh người mẹ nhân từ, hồn hậu,sẵn lòng cưu mang những đồng loại đói khát hơn mình. Chính lời nói của mẹ đã như vòng tay rộng mở để ôm người đàn bà xác xơ ấy từ cõi chết trở về với cõi sống, từ bất hạnh trở về với yêu thương. Mẹ đẫ mở ra cho người con gái ấy con đường sống đã thổi vào cuộc đời tăm tối ấy một nguồn sáng ấm áp, yêu thương. Thị đã sống lại lần thứ hai từ chính câu nói ấy của bà cụ tứ. Và cũng chính lời yêu thương chân thành mà giản dị ấy đã mang lại cho thiên truyện ngắn này một kết thúc đầy ánh mở ra đầy tối tăm của một chiều tàn,bóng tối phủ con đường, ngõ nhỏ, xác người chết, tiếng khóc, bầy quạ đói nhưng kết thúc bằng một buổi sáng ban mai nắng vàng rực rỡ. Ở đó, tiếng chổi tre quét sạt trên mặt đất nghe thương đến lạ. Anh tràng dậy trễ và cảm động nhìn mẹ và vợ quét tước nhà cửa bà cụ tứ với khuôn 'rạng rỡ hẳn lên', người vợ trông chẳng còn cái vẻ 'chao chát chỏng lỏn như mấy hôm Tràng gặp ở ngoài cổng chợ tỉnh'.Sự thay đổi da thịt ấy đa nói lên một điều thật ý nghĩatình yêu thương chính là ngọn nêń lung linh thắp sáng và xua tan mọi tâm hồn cằn cỗi và khổ hạnh, mang đến nguồn hp ấm áp và sức sống mới cho con người. Câu nói của bà cụ tứ thật giản dị mà sâu sắc là cánh cửa mở ra cuộc đời mới và cũng là cánh cửa để mở ra cho tác phẩm một trang sách môi khi tràng nghĩ về đoàn người đói và lá cờ Lân và Nam Cao đã rất tài tình khi xây dựng những mẫu đối thoại tinh tế để tạo nên những chi tiết nghệ thuật đắt giá cho tác phẩm. "Một chi tiết nhỏ làm nên tác phẩm lớn", quả đúng vậy "một gợi mà trăm suy", chỉ một câu nói trong tác phẩm thôi nhưng có thể mở ra chiều sâu chưa nói hết của những ý tưởng sáng. Lời nói của bà cô thị nở khiến ta hình dung cả cuộc đời dài dằng dặc của Chí Phèo, vừa giận lại vừa thương hắn vừa lại căm phẫn những cổ tục của xã hội cũ bởi những định kiến khắt khe. Câu nói ấy,suy cho cùng, vừa để ta gợi nhớ lại Chí Phèo nhưng đồng thời cũng là cái kết cho Chí Phèo trong xã hội dửng dưng, lạnh lùng ấy. Còn 'vợ nhặt' lại ấm áp biết bao tấm lòng bà mẹ nông dân nghèo khổ, việc con cái dựng vợ gả chồng quả là một 'cú sốc' lớn trong cuộc đời bà vì nghèo khổ quá đâu dám mơ một ngày con cái có thể yên bề gia thất. Việc bà cất lời đồng ý cho đôi bạn trẻ yên bề gia thất trong hoàn cảnh lúc này là mẹ bao dung,mẹ yêu thương và mẹ nhân đem so với nhau Kim lân đã bộc lộ giá trị nhân đạo sâu sắc khi ngợi ca tấm lòng người mẹ nông dân nghèo khổ và ngợi ca hết lòng tấm lòng yêu thương, đùm bọc của con người VN trong hoàn cảnh khốn cùng. Nam Cao cũng thông qua câu nói ấy của bà cô thị nở mà lên án định kiến hà khắc, lên án xã hội người thịt đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh khốn cùng nhà văn lên tiếng bênh vực quyền sống cho Chí Phèo kêu gọi đổi thay xã hội ấy để cứu lấy con lại, hai câu nói của hai nhân vật trong tác phẩm Chí Phèo' và 'vợ nhặt' là hai câu nói đã góp phần ko nhỏ trong việc thể hiện rõ chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Cũng qua đó góp phần thể hiện tài năng và cá tính nghệ thuật của các tác đây vừa giới thiệu tới các bạn Cảm nhận về câu nói của bà cô Thị Nở trong truyện Chí Phèo, mong rằng qua bài viết này các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn 11 nhé. Mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 11, tiếng Anh 11, đề thi học kì 1 lớp 11, đề thi học kì 2 lớp 11...
cảm nhận về thị nở