Trong Thần Kiếm Mobile - Funtap chỉ cần người chơi sở hữu lệnh bài chuyển phái là có thể hóa thân thành bất kỳ môn phái nào game cung cấp. Dân cày Việt Nam nói gì về Thần Kiếm Mobile của Funtap? AFKMobi tặng 888 giftcode game Thần Kiếm Mobile - Funtap. 1. Giải mã chi tiết điềm báo mơ thấy kiến bò 1.1. Mơ thấy kiến bò lên người Giấc mơ thấy kiến bò lên người sẽ báo hiệu về sức khỏe sắp đến của bạn không được tốt nếu như bạn ko biết cách coi ngó và kiểm soát an ninh bản thân mình. Những nghiêm trọng xoành xoạch rình rập các bạn và chỉ cần chờ Chư thiên cõi Sắc giới. Mười tám hạng trời ở cõi Sắc, chư Thiên không hình tướng nam nữ. Không có sự dục nhiễm, dùng thiền định để trưởng dưỡng sắc thân. Sở dĩ gọi Sắc giới, vì chúng sanh ở cõi nầy lìa sự nhiễm dục, từ thân đến cảnh đều là sắc chất 1. Thân nhân là gì? Thân nhân là thuật ngữ được nhắc đến rất nhiều trong các văn bản pháp lý. Theo đó, thân nhân có thể hiểu là mối quan hệ đặc biệt của một người, có thể là quan hệ thân thích hay các mối quan hệ khác. Nếu con muốn phá được thân kiến phải tu tập những gì để có sức tự chủ? Con cúi xin Thầy giúp con thoát khỏi hoặc ngăn ngừa những sai lầm! Ðáp: Con hiểu về thân kiến rất đúng. Trên đời, người ta khổ vì chấp thân là của ta, gặp hoàn cảnh khó khăn, gặp việc khó Đại đức Thích Minh Niệm 'làm cha mẹ tỉnh thức' Kiến thức 15:18 06/09/2022 . Khi cha mẹ tỉnh thức, tức là đang sống sâu sắc trong giây phút hiện tại, nhận biết những gì đang xảy ra quanh mình và cả trong chính mình thì chắc chắn cha mẹ sẽ ý thức trọn vẹn mình đang làm cha mẹ và đang có các con thân yêu. BGvib. 1. Các chúng sinh phải lang thang trong những cõi sống vui và khổ do thân kiến như thế nào? Các loại tà kiến khác nhau, các loại ác pháp khác nhau và các loại nghiệp khác nhau nằm ngầm trong và đi kèm theo dòng hữu phần của các chúng sinh còn đang lang thang trong vòng tử sinh luân hồi. Do những tâm sở bất thiện này, mà những điều sau có mặt rất rõ rệt. Bốn cõi thấp cõi khổ, và Các loại hành nghiệp bất thiện khác nhau. Do những tâm sở xấu xa này mà các chúng sinh cứ mãi trôi lăn trong các cảnh giới sinh tồn khác nhau. Không nói quá đáng đâu, ngay cả những con heo, con chó, thuộc bốn cõi thấp trong quá trình luân hồi có thể sẽ trở thành các vị Đại Phạm Thiên. Đôi khi chúng sẽ sinh vào các cảnh giới Phạm Thiên cao hơn, chẳng hạn như Quang Âm Thiênābhasara, Biến Tịnh Thiên subhakiṇha, Quảng Quả Thiên vehapphala và những cõi vô sắc. Mặc dù chúng có cơ hội được tái sinh trong những cõi Phạm Thiên cao vời này, khi mà thọ mạng của chúng đã tận hoặc khi phước của chúng đã hết, chúng cũng phải tái sinh lại vào bốn cõi thấp. Đây là đường lối của thế gian. Bộ Phân Tích có nói Ukkhittā puññatejena, Kāmarūpagatim gatā, Bhavaggatampi sampattā Puna gacchanti duggatim. Do các thiện nghiệp làm duyên, các chúng sinh sẽ tái sinh vào dục giới, sắc giới, và ngay cả cõi phi tưởng phi phi tưởng xứ neva-saññā-nā saññāyatana thuộc cõi vô sắc. Dù cho là vậy, khi thọ mạng của chúng đã mãn, hoặc khi phước của chúng đã cạn, chúng cũng phải tái sinh vào bốn ác đạo. Vì những tâm sở ác tà kiến và ác nghiệp ấy luôn luôn đi kèm theo dòng hữu phần của các chúng sinh, cho dù họ có thành các vị Đại Phạm Thiên, họ cũng chỉ là hàng phàm nhânputhujjanas, và là những cư dân của cõi thế gian. Cũng như những viên đá hay những mũi lao ném lên trời, cuối cùng rồi sẽ rơi xuống đất trở lại do lực hấp dẫn như thế nào, thời các chúng sinh có thể phải tái sanh vào bốn cõi thấp cũng vậy. Khi dòng hữu phần của họ chứa chất đầy những tâm sở y như địa ngục, thì họ sẽ là những chúng sinh đang đi về hướng các địa ngục tạm thời; khi những tâm sở độc ác đi kèm với dòng hữu phần, họ là những chúng sinh có tâm địa độc ác, chắc chắn sẽ làm các ác nghiệp; khi họ tồn tại trong cõi mà ác nghiệp có rất nhiều, họ là những cư dân của cõi đó; khi họ tồn tại trong cõi mà hầu hết các chúng sinh không có tuệ nhãn’, họ là những cư dân của cõi đó. Thế nào là cõi ác nghiệp có nhiều kaṇha-bhūmi và thế nào là cõi các chúng sinh bị mù quáng do ngu dốt, không có tuệ nhãn’ andha bāla-bhūmi? Những tà kiến pāpa diṭṭhi, ác pháp pāpa-dhamma và bất thiện nghiệp pāpa-kamma đã đề cập ở trên hiển hiện rõ ràng trong hai cõi này – kaṇha bhūmi và andha-bāla bhūmi. Câu hỏi kế tiếp Vì sao ngay cả các vị Đại Phạm Thiên cũng hiện hữu trong hai cõi này? Vì họ có thân kiến hay thường kiến Tôi là, Tôi là’. 2. Sức Mạnh Của Thân Kiến Căn nguyên của mọi tà kiến, mọi bất thiện tâm sở và mọi ác nghiệp là attā-diṭṭhi thân kiến. Bao lâu những tà kiến này pāpa-diṭṭhi còn tồn tại trong dòng hữu phần của một chúng sinh, thời tà kiến, tà pháp pāpa-dhamma và tà nghiệp pāpa-kamma cũng sẽ tồn tại ở đó. Hễ những tà kiến này còn kèm theo dòng hữu phần của họ, họ sẽ được gọi là người hướng về địa ngục’, người làm điều ác’, cư dân của cõi ác nghiệp thịnh hành’, và cư dân của cõi các chúng sinh bị mù lòa vì si mê – andha-bāla’. Một khi thân kiến diệt, cả ba tà kiến này cũng sẽ bị dập tắt cùng với các loại ác pháp. Những người không thể diệt trừ thân kiến sẽ trở thành kẻ thừa tự của pāpa-diṭṭhi tà kiến. Như thế nào? Bởi vì khi một người còn có thân kiến chắc chắn sẽ không thể loại trừ vô vàn tà kiến, tà pháp và tà nghiệp mà họ đã chấp giữ trong nhiều đại kiếp hay nhiều kiếp sống trong vòng tử sinh luân hồi vậy. Dù cho những chúng sinh mà dòng hữu phần của họ được kèm theo bởi thân kiến này có tái sinh vào cõi phi tưởng phi phi tưởng xứ chăng nữa, những tà kiến, tà pháp và tà nghiệp ấy cũng vẫn cho họ những dị thục quả tương xứng và tất nhiên sẽ kéo họ vào những cõi thấp hơn. Bao lâu con người không thể loại bỏ thân kiến này, họ sẽ phải trở thành những nạn nhân của tà kiến, tà pháp và tà nghiệp, trong các kiếp tương lai của họ. Và trong bất kỳ kiếp sống nào mà họ sinh ra, họ vẫn sẽ chấp nhận tất cả những tà kiến nào mà họ gặp, thực hiện các loại ác hạnh’ nào họ có cơ hội thực hiện, và phạm vào những trọng nghiệp như giết cha, giết mẹ, Trong kiếp hiện tại cũng vậy, thường những ai có thân kiến thì sẽ có khuynh hướng chấp nhận tà kiến, nuôi dưỡng các bất thiện tâm sở và làm những điều ác. 3. Thuyết Tạo Hóa Phát Sinh Do Thân Kiến Thế Nào? Thực sự, Thuyết Tạo-hóa issaranimmāna có mặt trong cuộc đời là do thân kiến này. Chính do thân kiến aṭṭā diṭṭhi mà Đại Phạm Thiên Māha Brahmā vốn không biết mình từ đâu đến và khi nào thì sẽ rời khỏi Phạm Thiên giới này nghĩ mình là thường hằng, bất biến, vĩnh cửu, không phải chịu sự đổi thay, và tồn tại như một đấng vĩnh hằng. Vị Phạm Thiên này tự nhủ Ta là đấng Phạm Thiên, Đại Phạm Thiên, bậc chiến thắng, bậc không ai có thể chiến thắng, bậc biến nhãn, đấng quyền năng, bậc cai trị, sáng tạo chủ, đấng tối thắng, đấng toàn năng, đấng đã hành và đạt đến an định, cha của tất cả chúng sinh đang là và sẽ là.’ Thỉnh thoảng vị này hiện ra nơi các cõi Phạm Thiên có thọ mạng ngắn hơn và nói Ta là vĩnh hằng; Ta là toàn năng; Ta tạo ra tất cả các người.’ Khi các vị Phạm Thiên kia nghe những lời ấy, họ tin tưởng ông ta và như vậy trở thành những người chấp giữ thuyết Tạo hóa này. Phạm Thiên còn vậy, nói gì đến những chúng sinh tái sinh nơi các cõi chư Thiên và nhân loại! Những người chủ trương thuyết tạo hóa này từ đó xem ông ta như đấng sáng tạo của họ. Tóm lại, xuất phát từ những lời của vị Đại Phạm Thiên đó mà tà kiến này có mặt trong cuộc đời vậy. 4. Không Có Hạnh Phúc Thực Sự Khi Còn Thân Kiến Bao lâu con người không thể loại trừ thân kiến attā-diṭṭhi, dù cho họ có trở thành một vị Đại Phạm Thiên tự xưng là đấng sáng tạo chăng nữa, họ cũng sẽ không tài nào thoát ra khỏi sự trói buộc của tà kiến, tà pháp, tà nghiệp, vốn đã nảy sinh trong dòng hữu phần của họ trong những kiếp quá khứ, đang khởi lên trong kiếp hiện tại và cũng sẽ hiện hữu trong những kiếp tương lai của họ, và chắc chắn họ sẽ phải tái sinh vào những cõi thấp trong đời sau. Như vậy họ chỉ là cư dân của những cõi đa nghiệp chướng kaṇha-bhūmi, cũng như cá và rùa phải cư trú trong đại dương. Vì họ không có tuệ nhãn’ nên họ cũng còn là những cư dân của cõi mà các chúng sinh bị mù lòa do si mê andha-bāla bhūmi. Hiện tại những chúng sinh phải tái sinh vào các cõi thấp do bất thiện nghiệp quá khứ mà họ đã tạo, song bất luận ai trong họ cũng có thể, trong một kiếp tương lai nào đó, trở thành một vị Đại Phạm Thiên tự xưng mình là Thượng Đế toàn năng, khi thiện nghiệp quá khứ của họ chín muồi. Như vậy, chúng ta cần phải nhớ rằng, nếu attā-diṭṭhi thân kiến còn ngủ ngầm trong dòng hữu phần của các chúng sinh, họ không thể nào tìm được hạnh phúc chơn thực trong khi còn đang lang thang trong vòng tử sinh luân hồi, và chắc chắn cũng sẽ không thể tìm được lối thoát ra khỏi vòng trầm luân ấy. XIV. Những Lợi Ích Xuất Phát Từ Việc Đoạn Diệt Hoàn Toàn Thân Kiến 1. Không Còn Tái Sinh Vào Địa Ngục Khi người ta có thể tẩy trừ thân kiến vốn là căn nguyên của tà kiến, thì những hiện tượng tâm lý đã từng đi kèm theo dòng hữu phần của họ trong quá khứ, đang đi kèm trong kiếp hiện tại và sẽ đi kèm với dòng hữu phần của họ trong các kiếp tương lai này, sẽ bị hủy diệt hoàn toàn. Lúc ấy họ sẽ trở thành kẻ thừa tự của những thiện nghiệp mà họ đã làm trong quá khứ, đang làm trong hiện tại, và sẽ làm trong kiếp tương lai. Một khi các chúng sinh này đã loại bỏ được thân kiến, thì mọi tà kiến, mọi bất thiện tâm sở và ác nghiệp dẫn họ vào bốn ác đạo sẽ diệt cùng với thân kiến ấy. Họ không còn phải tái sinh trong bốn ác đạo, và chắc chắn sẽ thoát khỏi sự kềm kẹp của chúng trong các kiếp sống tương lai. Vì họ không còn tạo tác những ác nghiệp, nên họ sẽ vĩnh viễn thoát khỏi mọi điều ác. 2. Chứng Đắc Niết Bàn Sự dập tắt hoàn toàn của mọi phiền não bao gồm tà kiến, tà pháp, và sự dập tắt hoàn toàn của ác nghiệp với các uẩn hữu vẫn còn được gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn sa-upādisesa-nibbāna hay cảnh giới siêu thế, cảnh giới của các bậc thánh. 3. Không Còn Chết Hữu Dư Y Niết Bàn – trạng thái diệt tận mọi phiền não, như tà kiến, với các uẩn hữu vẫn còn nghĩa là còn thân ngũ uẩn nhưng tâm phiền não đã diệt, không bao giờ bị hư hoại, tiêu hủy hay thối đọa, trong các kiếp tương lai. Trạng thái này là thường hằng và vĩnh cửu; nó không bao giờ thay đổi, không bao giờ hư hoại, không bao giờ mất đi; và không bao giờ diệt vong. Trạng thái này không có sát na hoại’, nên được gọi là bất tử amata. 4. Không Tạo Tác Những ai đạt đến trạng thái dập tắt mọi phiền não và căn nguyên phát sinh thân kiến – attā diṭṭhi – như vậy sẽ thấy rằng trạng thái tận diệt này không bao giờ bị hủy hoại trong tương lai. Những tà kiến, tà pháp và tà nghiệp sẽ không thể nào khởi lên trong tâm họ trở lại. Trạng thái không còn tạo tác những ác nghiệp mà vốn sẽ dẫn họ vào các cõi khổ này sẽ chẳng bao giờ bị hủy hoại, cũng không bao giờ bị hư hao. Và họ sẽ chẳng còn phải tái sinh nữa. Sự dập tắt của mọi phiền não này là bất tử giới amata-dhātu – trạng thái không còn tử-sinh hay còn gọi là vô vi giới asaṅkhāta-dhātu. Kể từ lúc thân kiến bị dập tắt trong tâm của những người đã đạt đến Hữu Dư Y Niết Bàn sa-upādisese-nibbāna, là họ đã vượt qua giai đoạn phàm phu puthujjana và không còn nằm trong lãnh vực của phàm nhân nữa. Từ đây họ bắt đầu hiện hữu trong cảnh giới của các bậc thánh và trở thành cư dân của cảnh giới siêu thế ấy. Những người đã đoạn trừ hoàn toàn thân kiến này sẽ chỉ luân chuyển giữa các cõi nhân-thiên tối đa là bảy lần nữa trong vòng luân hồi và cuối cùng thì đạt đến Niết Bàn. Ghi chú Ở đây đang nói về bậc Thánh Nhập Lưu – sotapanna Tuy nhiên, đối với một số vị thánh Nhập Lưu sẽ tái sinh vào các cõi Phạm Thiên, hay những vị đang luân chuyển trong các cõi Phạm Thiên thì không có sự hạn định này, vì họ đã trở thành hạng uddhāgāmi-puggalā những chúng sinh sẽ sống qua những tầng phạm thiên cao hơn. Họ có thể trải qua các cõi Phạm Thiên trong hàng trăm, hàng ngàn hoặc hàng trăm ngàn kiếp và đại kiếp; song họ sẽ không bao giờ phải sinh vào bốn ác đạo, cũng như không bao giờ luân chuyển trong các cõi nhân-thiên dục giới. Do thiện nghiệp trong quá khứ và hiện tại của họ làm duyên, các bậc thánh này sẽ tiến triển qua những cõi an vui. Trong tương lai cũng vậy, họ chỉ thực hiện những thiện nghiệp và không bao giờ nghĩ đến việc làm các ác nghiệp. Thân kiến, vốn là căn nguyên của tà pháp và ác nghiệp, đã được họ dập tắt hoàn toàn. Các bậc Thánh đã xua tan thân kiến này sẽ trở thành kẻ thừa tự của nghiệp hiện tại. Họ có những thiện nghiệp để đưa họ đến cõi sống an vui và chắc chắn chỉ có đi đến cõi đó mà thôi. Vì họ đã thành tựu những pháp cao quý, nên họ trở thành các bậc đáng tôn quý. Vì họ hiện hữu trong cảnh giới, nơi đây thiện nghiệp thuần tịnh có nhiều, nên họ trở thành những cư dân của cảnh giới ấy. Vì họ có tuệ nhãn’ nhờ đó họ có thể chứng ngộ Tứ Thánh Đế, nên họ là các bậc thánh. Trong tương lai, dù còn phải dong duỗi bất kỳ kiếp sống nào, họ cũng sẽ có đầy đủ trí tuệ của bậc thánh ariya-paññā. Vì họ đã vượt qua giai đoạn của phàm nhân chưa thể xua tan thân kiến, nên họ trở thành thánh nhân – những cư dân của cảnh giới siêu thế. Trong thời kỳ đức Phật có rất nhiều gia chủ người cư sĩ ở Sāvatthi, Benares, Vesāli,Rājagaha những kinh thành mà đức Phật đã đi qua trong thời kỳ hoằng pháp trở thành bậc Thánh Nhập Lưu sotāpana sau khi đã xua tan thân kiến attā-diṭṭhi. Kinh điển ghi chép rằng Phạm Thiên Vương Sanankumāra đã có lần bộc lộ cho biết là có vô số bậc thánh trong thế gian này. Tất nhiên, những người đã đắc nhập lưu trong thời kỳ Đức Phật bây giờ vẫn còn đang sống trong sáu cõi trời dục giới. Các vị Tu-đà-hoàn này được gọi là uddham sota-puggala’những vị đang hướng lên các cõi cao hơn – Thượng lưu thiện thú nhân, và sẽ không bao giờ tái sinh vào một cảnh giới thấp hơn. Có thể nói, mười ngàn thế gian trong cõi thọ sanh jāti-khetta, có hàng tỷ tỷ, số lượng không thể tính được các vị chư thiên Tứ Đại Thiên Vương là bậc nhập lưu. Trong năm cõi trời dục giới khác và các cõi Phạm Thiên như Phạm Chúng Thiên brahmaparisajjā chẳng hạn, số lượng các vị Tu-đà-hoàn nhiều không tính kể. Các vị này được gọi là uddhagāmi-puggalā Thượng lưu thiện thú nhân sẽ không bao giờ tái sinh vào một cõi thấp hơn. Cái Tôi Hay Tự Ngã Làm Cho Con Người Ta Xấu Xa Như Thế Nào? N hững chúng sinh còn kiến chấp về tự ngã hay thân kiến thường có khuynh hướng làm các điều ác và phải lang thang không ngừng trong vòng luân hồi bất tận. Khoảnh khắc nào họ có thể dập tắt được thân kiến, ngay lúc ấy họ đã thiết lập được sự thanh tịnh và cao quý, và từ đó họ sẽ rong ruỗi một cách bình an trong vòng luân hồi không còn mọi nguy hiểm. Người ta có thể hỏi “Vì sao thân kiến lại là căn nguyên của mọi tà kiến, tà tư duy và tà nghiệp, và vì sao sự hủy diệt của thân kiến này lại là cội nguồn của sự tận diệt những thứ ấy?” Vấn đề có thể được trả lời theo cách này tỷ dụ, một vị vua nọ rất gắn bó với vương quyền, hãnh diện với sự phù hoa tráng lệ của mình. Để giữ gìn vương vị và sự vinh quang này, ông sẽ phải vận dụng mọi ý nghĩ ác và hành động ác trong quyền lực của mình. Và nếu vua càng tham chấp vương quyền của mình bao nhiêu, ông lại càng nuôi dưỡng những ý nghĩ độc ác và thực hiện ác nghiệp nhiều bấy nhiêu. Một thời gian sau, vị vua đó thấy được những sơ suất và khuyết điểm trong bổn phận làm vua của mình. Từ đó sự tham quyền cố vị của ông giảm dần, và ông khởi lên một ước muốn mãnh liệt muốn thoái vị để trở thành một sa môn. Cũng từ lúc ấy ông có một cái tâm viễn ly mọi ác nghiệp từng được xem là cần thiết để giữ gìn và bảo vệ vương quyền và vinh dự của ông, và từ đây về sau sẽ tránh làm mọi điều ác. Một thời gian sau nữa ông xuất gia, từ bỏ đời sống gia chủ để sống cuộc đời của một vị sa môn. Mặc dù đã trở thành một vị sa môn, ông vẫn mê lầm xem thân và tâm hay năm uần là tự ngã của ông, tự ngã ấy có bản chất hay thực chất đầy đủ và thuộc về của ông. Như vậy ông đã lầm tưởng năm uẩn này là bản ngã và chấp vào đó. Bao lâu ông còn chấp chặt thân kiến này và không thể buông bỏ nó ra, chừng ấy chắc chắn ông sẽ phải gìn giữ bản ngã của mình bằng cách nuôi dưỡng những ý nghĩ ác và thực hiện những điều ác khi có cơ hội. Rồi một lúc nào đó trong cuộc đời làm Sa môn của mình, ông nhận rõ những khuyết điểm và khổ đau tiềm tàng trong năm uẩn. Sau khi đã chánh kiến với minh-sát-tuệ rằng không có một bản chất hay thực thể nào trong năm uẩn, không có một tự ngã hay linh hồn nào cả, ông sẽ không còn chấp ngã nữa. Từ giây phút ấy ông sẽ không còn nuôi dưỡng một ý nghĩ bất thiện hay làm một điều ác nào nữa, nhờ vậy mà những gì trước đây ông giữ gìn như bản ngã của mình thì bây giờ ông chỉ giữ mình bằng những hành vi đạo đức. Ông sẽ chẳng bao giờ đi chệch ra khỏi con đường đạo đức để bảo vệ mình. Thực vậy, ông sẽ dũng cảm hy sinh bản thân mình để giữ gìn những nguyên tắc đạo đức hay giới luật ấy. Từ ví dụ trên chúng ta cần hiểu rằng thân kiến là căn nguyên của mọi điều ác và sự diệt của kiến chấp ấy là cội nguồn của sự diệt các ác bất thiện khác. * Attā và Anattā Attā có nghĩa là bản ngã, cái tôi, cá nhân, thực thể, linh hồn’; còn anattā là vô ngã, không có thực thể linh hồn’. Chữ anattā được dùng để truyền đạt ba cách giải thích sau 1. Asārakaṭṭhena-anattā Do không có cốt lõi hay thực thể mà nó được gọi là anattā 2. Asāmikaṭṭhena-anattā Do không có bất kỳ một ông chủ hay chủ tể nào nên gọi làanattā. 3. Avasavattanaṭṭhenā-anattā Do không tuân theo ý người khác nên gọi là anattā. * Asārakaṭṭhena Anatta Năm Uẩn Hữu Bị Chấp Lầm Là Tự Ngã Attā Trong ba cách giải thích trên, trước tiên bần tăng sẽ làm sáng tỏ câu Asārakaṭṭhena-anattā Do không có cốt lõi hay thực thể, nên gọi là Vô ngã –anattā Attā theo nghĩa thông thường là cốt lõi hay thực chất. Những người không phân biệt được sự sinh diệt trong từng sát na của các hiện tượng tâm-vật-lý của năm uẩn và vì vậy không thể hiểu được đặc tính vô thường anicca của chúng, nên chấp rằng Sắc uẩn là cốt lõi, là bản thể và do đó là tự ngã của chúng sinh; tưởng uẩn là cốt lõi, là bản thể và do đó là tự ngã của chúng sinh; hành uẩn là cốt lõi, là bản thể và do đó là tự ngã của chúng sinh; và thức uẩn là cốt lõi, là bản thể và do đó là tự ngã của chúng sinh’. Loại kiến chấp này được gọi là thân kiến. Ví Dụ Cái Bát Bần tăng sẽ giải thích điều này bằng một ví dụ. Chúng ta biết có những vật được gọi là bát gỗ, bát đất, bát đồng, bát bạc, bát vàng, Một cái bát làm bằng gỗ thì gỗ được xem như bản chất của nó và được gọi là cái bát gỗ; một cái bát làm bằng đất thì đất được xem như bản chất của nó và được gọi là cái bát đất; một cái bát làm bằng sắt thì sắt là bản chất của nó và được gọi là cái bát sắt; một cái bát làm bằng bạc thì bạc là bản chất của nó và được gọi là cái bát bạc; và một cái bát làm bằng vàng thì vàng là bản chất của nó và được gọi là cái bát vàng. Ở đây, chữ bát’ chỉ là cái tên để trỏ một khái niệm hình ảnh saṇthāna-paññatti – hình thức chế định, và từ ngữ có tính ước lệ về cái bát’ này không có cốt lõi hay thực chất nào để xem như một pháp cùng tột pháp chơn đế. Chỉ có những từ chế định về gỗ’, đất’, vàng’, bạc’, mới có cốt lõi hay thực chất ít nhất cũng cho mục đích này. Đơn giản nghe tiếng bát’ là ta có thể hiểu khái niệm hình ảnh về một cái bát, nhưng không hiểu được cốt lõi hay bản chất của nó. Chỉ khi nghe những từ chế định về gỗ’, vàng’, có thể biết cốt lõi hay bản chất của cái bát ấy bằng gì. Có thể người ta sẽ hỏi Tại sao gỗ’, đất’, hay vàng’ lại là cốt lõi hay bản chất của cái bát?’ Bần tăng sẽ giải thích điều này rõ ràng hơn. Khi gọi một vật làm bằng gỗ’, thì gỗ’ là cốt lõi hay thực chất của khái niệm hình ảnh về cái bát, và do đó cũng là tự ngã attā của nó. Không có thực chất của gỗ, từ chế định cái bát’ không thể hiện hữu. Chỉ miếng gỗ nào được làm thành dạng cái bát mới gọi là cái bát gỗ. Cái bát gỗ này sẽ kéo dài bao lâu tùy theo độ bền của chất gỗ ấy, và giá trị của nó tùy thuộc vào loại gỗ mà nó được làm ra. Nếu đó là một cái bát làm bằng gỗ tếch teak, giá trị của nó sẽ tùy thuộc vào giá của loại gỗ tếch ấy. Nếu nó được làm bằng gỗ trầm, giá trị của nó sẽ tùy thuộc vào giá của gỗ trầm. Về việc sử dụng cũng vậy, một cái bát bằng gỗ tếch sẽ được dùng vào chỗ nào mà nó phù hợp cho việc sử dụng, và đối với bát bằng gỗ trầm hay một loại gỗ nào khác cũng thế. Về phương diện xứng đáng thì cái bát gỗ hay bát trầm được xem là xứng đáng theo những tiêu chuẩn của chúng. Như vậy, khi chúng ta nói cái bát gỗ’, thì gỗ là cốt lõi hay thực chất của cái bát. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho trường hợp của bát đất, bát vàng, So Sánh Tương tự, một chúng sinh bao gồm sắc uẩn và sắc uẩn này kể như cốt lõi hay thực chất của người ấy. Những gì có uẩn này làm cốt lõi hay thực thể của nó thì được gọi là một chúng sinh. Một chúng sinh bao gồm thọ uẩn và thọ uẩn này kể như cốt lõi hay thực chất của người ấy. Những gì có uẩn này làm cốt lõi hay bản chất của nó thì được gọi là một chúng sinh. Một chúng sinh bao gồm tưởng uẩn và tưởng uẩn này kể như cốt lõi hay thực chất của người ấy. Những gì có uẩn này làm cốt lõi hay thực chất của nó thì được gọi là một chúng sinh. Một chúng sinh bao gồm hành uẩn và hành uẩn này kể như cốt lõi hay thực chất của người ấy. Những gì có uẩn này làm cốt lõi hay thực chất của nó thì được gọi là một chúng sinh. Một chúng sinh bao gồm thức uẩn và thức uẩn này kể như cốt lõi hay thực chất của người ấy. Những gì có uẩn này làm cốt lõi hay thực chất của nó thì được gọi là một chúng sinh. Tóm lại, mỗi chúng sinh bao gồm năm uẩn và có năm uẩn kể như cốt lõi hay thực chất của họ. Trong ví dụ này, cái bát giống với một chúng sinh và thực chất của cái bát giống với năm uẩn hình thành cốt lõi hay thực chất của một chúng sinh vậy. * Thân Kiến Hình Thành Như Thế Nào? Một số người chủ trương quan kiến như sau Bao lâu năm uẩn hình thành sự sống này kéo dài, không bị hư hoại hay tan rã, những chúng sinh sẽ kéo dài tới chừng ấy, không bị hư hoại hay tan rã. Họ sẽ sống đến trăm tuổi hay ngàn tuổi mà không bị hư hoại, tử vong hay tan rã, và trong suốt giai đoạn ấy, năm uẩn vốn là cốt lõi hay thực chất của họ cũng không hư hoại hay tan rã.’ Quan kiến này là thân kiến’ attā-diṭṭhi Một số người hiểu rằng cốt lõi hay bản chất của cái bát gỗ là gỗ, song họ không thể thể nhập vào sự thực và phân biệt rành rẽ được miếng gỗ ấy cũng chỉ bao gồm vô số những tổng hợp tám sắc thuần bát pháp sắc hay đoàn bát thuần. Vì thế mà họ chỉ có thể hiểu một cách nông cạn rằng cốt lõi hay bản chất của cái bát gỗ là gỗ mà thôi. Có những người thể nhập được vào sự thực và hiểu rõ rằng cốt lõi hay bản chất của gỗ chỉ là tập hợp của những tổng hợp sắc, và những sắc ấy cũng chỉ là những hiện tượng sinh-diệt do nhân duyên tạo thành. Họ hiểu theo cách như sau Trạng thái giãn nở dễ nhận ra trong một miếng gỗ mang hình thù của cái bát và những yếu tố giãn nỡ này chắc chắn phải là sự thực cùng tột chơn đế của địa đại pathavi-dhātu – yếu tố giãn nở, và hoàn toàn không có gỗ’. Cũng vậy, trạng thái kết dính dễ tìm thấy trong hình dạng ấy là đặc tính của thủy đại āpo-dhātu – yếu tố kết dính; trạng thái nóng hay lạnh tìm thấy trong hình thể ấy là đặc tính của hỏa đại tejo-dhātu – yếu tố nhiệt, và trạng thái hỗ trợ hay chuyển động tìm thấy trong hình thể đó là đặc tính của phong đại vāyo-dhātu – yếu tố chuyển động. Bốn yếu tố này được gọi là bốn đại chủng hay tứ đại māha bhūta. Cũng theo cách ấy, màu sắc của miếng gỗ là vaṇṇa yếu tố màu, mùi được gọi làgandha yếu tố mùi, vị gọi là rasa yếu tố vị, và dưỡng chất được gọi là oja yếu tố dưỡng chất. Một số người có trí tuệ thể nhập vào sự thực và hiểu rõ được như vậy. Khi họ đã thể nhập vào được sự thực như vậy, họ nhận ra Chỉ có những hiện tượng vật lý đang trôi chảy liên tục chứ không có gỗ hiện hữu và nếu đã không có gỗ, thời làm sao có thể có cái bát gỗ trong ý nghĩa cùng tột được?’ Khi miếng gỗ mà theo qui ước chúng ta gọi là cái bát’ ấy bị tác động bởi lạnh, nóng, hoặc bị cây đập, hoặc bị giáo chọc thủng, hoặc bị quăng lên quăng xuống, các hiện tượng vật lý chứa đựng trong gỗ ấy sẽ thay đổi, nhường chỗ cho những hiện tượng mới, và sau khi đã sanh lên chúng sẽ diệt ngay tại chỗ ấy. Một số các hiện tượng sắc hư hoại, một số phân rã và một số phát sinh trở lại tùy theo các duyên, có số tăng, số giảm, và có sỗ giữ bình thường. Khi đã thấu hiểu theo cách này họ tuệ tri rằng không có gỗ ngoài những yếu tố vật lý này. Bây giờ, khi gỗ tự thân nó đã không có mặt trong ý nghĩa cùng tột, thời làm sao gỗ lại có cốt lõi hay thực chất của cái bát được? Làm thế nào những tổng hợp sắc sinh diệt trong từng sát na ấy lại có thể trở thành cốt lõi hay thực chất của gỗ được? Họ thể nhập vào chân lý như thế. Ở đây, từ qui ước về cái bát’ cũng giống như từ qui ước về chúng sinh’. Các tổng hợp sắc chứa đựng trong gỗ cũng giống như năm uẩn hữu vậy. Đây là sự tương đồng. Đối với danh uẩn, nó hoàn toàn không có một hình dạng nào cả. Khi một đối tượng xúc chạm với bất kỳ một phần nào của thân, thức sanh lên và diệt ngay lập tức. Bình thường dòng hữu phần bhavangasota sinh và diệt không ngừng trong trái tim. Chỉ khi nào một đối tượng mới tiếp xúc với nó, dòng hữu phần mới dừng lại để xử lý đối tượng ấy. * Những Ý Niệm Về Hình Ảnh Và Khái Niệm Về Tính Tương Tục Hình Thức Chế Định Và Tương Tục Chế Định Hình dạng của các thân phần như mặt, tay, chân, ngực, bụng, và lưng được gọi là những ý niệm hình ảnh hay hình thức chế định saṇthāna. Riêng các danh uẩn không có hình tướng mà chỉ có santati-paññatti khái niệm về tính tương tục. Tính tương tục của sự thấy’ là dassana-santati. Tính tương tục của sự nghe’ gọi làsavan-santati. Tính tương tục của sự ngửi’ gọi là ghāyana-santati. Tính tương tục của sự nếm’ gọi là sāyana santati. Tính tương tục của suy nghĩ’ gọi là cintana-santati, * Hình Thức Chế Định Và Tương Tục Chế Định Được Xem Như Tự Ngã Attā Như Thế Nào? Có số người chỉ hiểu các loại hình dạng hoặc tướng trạng khác nhau và các loại tương tục khác nhau, nhưng không phân biệt được một cách minh bạch các hiện tượng tâm-vật-lý vốn là cốt lõi hay bản chất của những khái niệm về hình dạng và tính tương tục ấy. Hơn nữa, họ lại không thể hiểu được sự hoại diệt trong từng sát na của các hiện tượng tâm-vật-lý này. Họ xem những khái niệm ấy như cốt lõi hay bản chất của chúng sinh và nhận lầm nó là tự ngã của họ. Khi, nhờ tuệ minh sát, người ta hiểu minh bạch thực chất của địa đại pathavī, các hiện tượng thuộc nhãn thức tâm hiểu ra rằng năm uẩn luôn phải chịu hoại diệt và tái sinh trong từng sát na, họ sẽ vỡ lẽ ra rằng năm uẩn này không có cốt lõi hay thực thể, và cũng chẳng hề là cốt lõi hay thực thể của các chúng sinh. Bần Tăng sẽ làm sáng tỏ vấn đề ở đây. Con người nghĩ rằng họ sống trong một ngày, một tháng, một năm, một trăm năm hay một ngàn năm, và trong suốt những giai đoạn ấy chẳng có gì được xem là sự hoại diệt và tái sinh trong từng sát na. Thực sự, các hiện tượng tâm-vật-lý trong năm uẩn mà người ta xem như cốt lõi hay thực thể ấy sinh và diệt cả tỷ lần trong một nháy mắt hay một ánh chớp. Nếu sắc uẩn được gán ghép là có tự ngã cốt lõi hay thực thể, thọ uẩn có tự ngã, tưởng uẩn có tự ngã, hành uẩn có tự ngã, thức uẩn có tự ngã, thì điều đó sẽ có nghĩa rằng những chúng sinh hoại diệt và tái sinh do các duyên trong từng sát na một. Tại sao? Vì cốt lõi hay thực thể của chúng sinh là các uẩn hữu, mà các uẩn này phải chịu hoại diệt và tái sinh trong từng sát na vậy. Trong thực tế, nếu như chúng ta xem việc dựa vào những ánh chớp sinh diệt cực kỳ nhanh và dùng chúng như những vật có thực thể là điều không thích đáng thế nào, thì cũng sẽ là điều không hợp khi dựa vào những hiện tượng tâm-vật-lý sinh diệt trong từng sát na như những vật có thực thể và xem chúng như cốt lõi hay bản chất của chính mình như vậy. Do đó năm uẩn là hoàn toàn vô ngã anattā – không có cốt lõi hay thực thể. Cấu trúc ADN * Asāmikaṭṭhena – Anattā Vô ngã do không có chủ thể Ý nghĩa của câu asāmikaṭṭhena-anattā là Vì những tia chớp, vốn không kéo dài hơn một sát na này, không có một cốt lõi hay thực thể nào cả, nên không thể có bất kỳ một chủ tể nào thống trị chúng, chúng cũng không phải là của riêng ai. Ví như ta không thể nói những tia chớp ấy do người này, người kia làm chủ và do đó chúng là của ông ta. Ở đây cũng vậy, ta không thể nói rằng các hiện tượng tâm-vật-lý bao hàm năm uẩn này thuộc về người ấy, và do đó là của riêng y, hoặc nói y là chủ tể của các hiện tượng ấy được. Vì thế, theo ý nghĩa của đoạn asāmikaṭṭhena anattā, thì năm uẩn là vô ngã. * Avasavattanaṭṭhena – AnattāVô ngã do không tuân theo ý muốn của ai. Bần Tăng sẽ giải thích rõ đoạn Avasavattanaṭṭhena-Anattā. Vì những tia chớp này không kéo dài lâu và không có thực thể, nên chúng sẽ không tuân theo ước muốn của ai cả. Ví như, thật không hợp lý để ta nói rằng những tia chớp này sẽ lắng nghe những lời ta nói, và rằng ta có quyền điều khiển chúng. Cũng vậy, các hiện tượng tâm vật lý chứa đựng trong năm uẩn hữu là vô thường, nên sẽ không tuân theo ước muốn của ai cả. Vì thế thật không hợp lý khi ta lầm chấp rằng năm uẩn này sẽ vâng theo những mệnh lệnh của ta, hay ta có quyền thống trị chúng. Sự xuất hiện của những tia chớp này là do các nhân duyên thích hợp, và không liên quan gì đến ước muốn của người nào’ cả, vì thế những tia chớp ấy không tuân theo ý muốn của bất kỳ ai. Sự sanh khởi của năm uẩn cũng vậy, là do các nhân duyên tạo ra chúng, và không liên quan gì đến ý muốn của người nào cả, vì thế năm uẩn không tuân theo ước muốn của bất kỳ ai. Ví như, thật không thích hợp khi nghĩ rằng những tia chớp này sẽ tuân theo ước muốn của ta thế nào, ở đây cũng vậy, nếu ta nghĩ rằng năm uẩn sẽ tuân theo ý ta và rồi xem chúng như cốt lõi hay thực thể của ta sao lại hợp lý cho được. Do đó, theo đoạn avasavattanaṭṭhenā-anattā, năm uẩn là vô ngã anattā trong nghĩa rằng chúng không tuân theo ý muốn của ai cả. Giải Thích Vắn Tắt Về Ngã Sở Anattaniya Attassa idam attaniam – attaniyam nghĩa là sở hữu của tự ngã hay ngã sở; attanā sambandhanti attaniyam- attaniyam là những vật liên hệ với tự ngã. Theo giải thích trên thì tất cả những vật hữu tình và vô tình liên hệ đến tự ngã đều được gọi là attaniya. Tuy nhiên những vật ấy chỉ trở thành ngã sở attaniya khi ta thủ chấp và thỏa thích với những đối tượng ấy qua tham ái và chấp nhận chúng như của riêng ta’, và là của ta’. Khi, do tuệ minh sát, người ta có thể vứt bỏ được những vật hữu tình và vô tình này vì không còn chấp thủ và thích thú đối với chúng, thì những vật này không còn là ngã sở attaniya nữa. Do không dính mắc vào những vật mà vốn không liên quan đến tự ngã và hoàn toàn tách biệt với nó; như vậy chúng không còn là attaniya ngã sở. Nói chung, sở dĩ con người quan tâm đến những gì mà họ xem như chính bản thân họ hoặc của riêng họ là do khái niệm về ngã sở này. Các hoạt động bằng thân, khẩu, ý của họ cũng đều dựa trên và được tạo điều kiện bởi chính sự quan tâm ấy. Như vậy căn nguyên của mọi điều xấu xa tội lỗi cho sự quan tâm ngu xuẩn ấy là ngã’ và ngã sở’. Con người nhầm lẫn những cái không phải ngã sở xem là ngã sở vì họ bị chi phối bởi những điên đảo tưởng, như cái không phải con họ lại nhận làm con, không phải vàng nhận là vàng, không phải bạc nhận là bạc, hoặc những tài sản khác không phải của họ lại nhận là của họ, Ảo Tưởng Về Ngã Sở Do Điên Đảo Vipāllasa Trong ý nghĩa cùng tột, hoàn toàn không có cái ngã riêng của ai cả, sự tình là vậy, sao lại có thể có bất kỳ một ngã sở nào được? Vì thế Kinh Pháp Cú có nói “Puttā m’atthi dhamma m’atthi” Iti bāla vihaññati, Attā hi attano natthi Kuto puttā kuto dhanam? “Con ta, tài sản ta?” Kẻ ngu nghĩ như vậy Thực sự, ngã còn không Đâu con? Đâu tài sản? PC. 62 Do sự nhận thức sai lầm về ngã sở mà người ngu mệt mỏi và kiệt quệ giống như con nai chạy theo huyễn cảnh nghĩ đó là một hồ nước. Thực sự, cái ngã của ta còn không có, thì làm thế nào có thể có được những đứa con của ta và tài sản của ta? Người ta không làm những điều ác bằng thân, khẩu, hoặc ý, do tham ái tác động, vì những vật mà họ không xem như chính bản thân họ hoặc sở hữu của họ và do đó họ không cảm thấy có sự quan tâm nào đối với chúng. Không thể có chuyện họ phạm điều ác hay tội lỗi vì những vật như vậy được. Và điều này là hoàn toàn rõ ràng từ những gì chúng ta thấy và kinh nghiệm trong thế gian này. Chỉ những ai ôm ấp thân kiến mới có ngã sở kiến. Những người không còn thân kiến cũng không còn ngã sở kiến. Đối với những người này, nói chi đến những vật bên ngoài, ngay cả đối với những phần trong thân thể của họ, như mắt, tai, mũi, lưỡi cũng như đối với các sắc, thinh, hương… hay những trần cảnh bên ngoài, họ cũng không có ảo tưởng. Những người đã đoạn trừ thân kiến, mặc dù vẫn tích góp của cải và nuôi dưỡng gia đình, song họ làm vậy không phải vì ảo tưởng về ngã sở attaniyasaññā mà do tàn dư của năng lực tham ái mà thôi. Bậc Thánh Và Thánh vức Ariya bhūmi Những người đã dập tắt hoàn toàn thân kiến chẳng bao giờ mơ tưởng đến việc thực hiện những nghiệp đưa đến địa ngục do tham ái đối với thân thuộc của họ hay đối với những vật ở bên ngoài, họ cũng sẽ chẳng bao giờ mơ tưởng đến việc thực hiện những nghiệp khiến họ phải tái sinh trong những cõi ác. Họ là những người đã đạt đến hữu dư y Niết bàn sa-upādisesa Nibbāna – trạng thái Niết-bàn vẫn còn ngũ uẩn, và sẽ trải qua những cảnh giới nhân-thiên trong nhiều kiếp, không còn trở lại mức độ của phàm nhân nữa. Thực sự, họ là những chúng sinh chắc chắn sẽ đạt đến các tầng thánh mỗi lúc mỗi cao hơn Ghi chú Điều này muốn nói đến các vị Thánh Tu-đà-hoàn – Sotāpanna. Khi họ muốn đạt đến trí của bậc Nhất lai’, họ sẽ nỗ lực để đắc đến Nhất lai Thánh đạo sakadā-gāmi magga, và đạt đến tầng thánh thứ hai. An trú trong tầng thánh này họ sẽ trải qua các cõi Phạm Thiên trong nhiều đại kiếp, thọ hưởng như các vị Đại Phạm Thiên. Khi muốn đạt đến Bất Lai Thánh Đạo anāgāmi-magga họ sẽ nỗ lực để đắc thánh đạo ấy và đạt đến tầng thánh thứ ba. An trú trong tầng thánh này họ sẽ trải qua các cõi Phạm Thiên trong nhiều đại kiếp, thọ hưởng như các vị Đại Phạm Thiên. Khi họ cảm thấy rằng ngay cả làm các vị Đại Phạm Thiên như vậy cũng chẳng có gì đáng để thỏa mãn hoặc bám víu vào lúc này họ ghê tởm làm Phạm Thiên cũng như ghê tởm nước bọt, họ sẽ nỗ lực để đạt đến Alahán Thánh đạo, tầng thánh thứ tư và cuối cùng, trở thành một vị Alahán. Ở đó họ không cần phải nỗ lực thêm nữa vì họ đã trở thành các vị Lậu tận – Ứng cúng Alahán khināsava-dakkhineyya – arahanta bậc Alahán đã dập tắt mọi phiền não và xứng đáng với mọi sự cúng dường. Họ sẽ sống như các bậc Alahán trong tầng thánh thứ tư trong nhiều đại kiếp, vào lúc chết họ sẽ vất bỏ thân năm uẩn này và đắc Vô dư Niết bàn anupā-disesa-nibbāna. Ở đây, Asaṅkhata-nibbāna Vô vi Niết bàn – Niết bàn vượt ra ngoài mọi sự trở thành và duyên sanh được gọi là Hữu dư Niết bàn sa-upādisesa-nibbāna. Tại sao Niết bàn này được gọi là hữu dư? Vì rằng nó được đạt đến trong khi các uẩn tạo thành con người, chư Thiên và Phạm Thiên vẫn còn. Ngược lại Niết bàn không còn năm uẩn hay không còn sự tương tục của tiến trình tâm-vật lý nầy được gọi là Vô dư y Niết bàn Anūpādisese Nibbāna. Trên nguyên tắc hai loại Niết bàn này không khác, vì cả hai đều là asaṇkhata vô vi – không tạo tác và amata bất tử. Vô tướng pháp animitta-dhamma pháp không có khởi đầu cũng chẳng có chấm dứt chỉ có một loại chứ không có hai. Năm Loại Chánh Kiến sammā-diṭṭhi Trong thời buổi hiện nay, những người giới đức mong muốn đạt đến cảnh giới siêu thế cần phải nỗ lực để an lập mình vào năm loại chánh kiến sau 1. Kammassakatā-sammādiṭṭhi chánh kiến rằng các chúng sinh là chủ nhân của nghiệp. 2. Nāma-rūpa-pariggaha-sammādiṭṭhi chánh kiến phát sanh từ việc thấu triệt những đặc tính của các hiện tượng tâm-vật lý Danh-sắc. 3. Hetu-paccaya-pariggaha-sammādiṭṭhi chánh kiến phát sinh từ việc thấu triệt căn nguyên và các nhân khác của các hiện tưởng tâm-vật lý Danh-sắc. 4. Vipassanā-ñāṇa-sammādiṭṭhi chánh kiến phát sanh từ nhận thức với trí tuệ minh sát. 5. Lokuttarā-magga-phala-sammādiṭṭhi chánh kiến phát sanh từ việc chứng các thánh đạo thánh quả. Trong năm loại chánh kiến này, chánh kiến siêu thế lokuttarā-sammadiṭṭhi còn được chia thành bốn a. Sotāpatti-magga-phala-sammādiṭṭhi chánh kiến phát sanh từ nhập lưu thánh đạo và nhập lưu thánh quả. b. Sakadāgāmi-magga-phala-sammādiṭṭhi chánh kiến phát sanh từ nhất lai thánh đạo và nhất lai thánh quả. c. Anāgāmi-magga-phala-sammādiṭṭhi chánh kiến phát sanh từ bất lai thánh đạo và bất lai thánh quả. d. Arahatta-magga-phala­-sammādiṭṭhi chánh kiến phát sanh từ Alahán thánh đạo và Alahán thánh quả. Trong giáo pháp của Đức Phật, bốn loại trên được gom thành một, vì thế chỉ có năm loại chánh kiến. * Chánh Kiến Rằng Các Chúng Sanh Là Chủ Nhân Của Nghiệp Kammassakatā-sammādiṭṭhi Luôn Luôn Tồn Tại Kammassakata-sammādiṭṭhi đã giải thích rõ ở trên là loại chánh kiến hiện hữu trong vô lượng vô biên vũ trụ và thời gian cho dù đức Chánh Biến Tri không xuất hiện. Chính do sự hiện hữu rất dễ nhận ra của chánh kiến này trong thế gian mà những cõi vui có mặt, tức những cõi nhân, thiên và Phạm Thiên có mặt. Các bậc thượng thủ thinh văn, các bậc Độc giác Phật và các bậc Toàn Giác Phật tương lai cũng có mặt do chánh kiến về các chúng sinh là chủ nhân của nghiệp này. Những ai có trí tuệ phát sinh từ loại chánh kiến về nghiệp này sẽ thoát ra khỏi các loại tà kiến. Nó là Đại nhãn’ – con mắt lớn của cõi thế gian. Tuy nhiên, thân kiến của những người chỉ thuần có chánh kiến này vẫn còn nguyên vẹn không thay đổi. Thân kiến này cũng được chia thành bốn loại 1. Ati-oḷārika-attādiṭṭhi thân kiến rất thô 2. Oḷārika-attādiṭṭhi thân kiến thô 3. Sukhuma-attādiṭṭhi thân kiến vi tế 4. Ati-sukkhuma-attādiṭṭhi thân kiến rất vi tế Bốn cấp độ của thân kiến này phải được đoạn trừ lần lượt rằng chánh kiến phân tích danh sắc nāma-rūpa pariggaha-sammādiṭṭhi, chánh kiến phân biệt nhân duyên hetupacaya sammādiṭṭhi, chánh kiến thuộc minh sát trí vipassanā ñāṇa-sammādiṭṭhi và chánh kiến thuộc đạo quả siêu thế lokuttarā-magga-phala-sammādiṭṭhi. Trong bốn loại chánh kiến ấy, chánh kiến phát sanh từ sự thấu triệt các hiện tượng tâm-vật-lý được gọi là chánh kiến phân tích danh-sắc nāma-rūpa-pariggaha sammādiṭṭhi. Chánh kiến phát sanh từ sự thấu triệt căn nguyên và các nhân khác của các hiện tượng tâm-vật lý, chánh kiến về duyên khởi của các hiện tượng ấy được gọi là chánh kiến phân biệt nhân duyên hetu-pacaya-pariggaha-sammādiṭṭhi. Chánh kiến phát sanh từ việc quán tính chất vô thường anicca, khổ dukkha và vô ngã anattā được gọi là chánh kiến thuộc tri kiến minh sát vipassanā ñāṇa dassana-sammādiṭṭhi. Còn trí phát sinh từ sự chứng đắc các đạo quả siêu thế được gọi là chánh kiến thuộc đạo quả siêu thế lokuttarā-magga-phala-sammādiṭṭhi. Bốn loại chánh kiến này chỉ có thể đắc được trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật. Ngoài ra ở bất cứ thời kỳ nào khác, những chánh kiến này là bất khả đắc. * Ngã Kiến Rất Thô ati-oḷārika diṭṭhi Ngược Với Trí Phát Sanh Từ Thanh Tịnh Kiến Diṭṭhi-visuddhiñāṇa Một số người chủ trương rằng năm uẩn là tự ngã attā hay linh hồn. Một số khác cho rằng ngoài năm uẩn này có một linh hồn điều khiển chúng. Tất cả các loại ảo tưởng như vậy được gọi là thân kiến rất thô ati-oḷārika-attā-diṭṭhi. Tà kiến này chỉ những ai có chánh kiến phân tích danh sắc nāma–rūpa pariggaha-sammādiṭṭhi mới có thể loại trừ được. Ghi chú Trí tuệ phát sinh từ việc thấu triệt đặc tính của các hiện tượng tâm vật lý hay còn gọi là Danh Sắc phân tích trí nāma rūpa pariggaha ñāṇa, trí tuệ xác định các hiện tượng tâm vật lý nāma rūpa navutthāna ñāṇa, và trí tuệ phát sinh từ việc thanh tịnh tri kiến diṭṭhi visuddhi là như nhau. Những loại trí ấy chỉ là những từ đồng nghĩa của chánh kiến phân tích Danh-Sắc nāma rūpa pariggaha sammādiṭṭhi. Liên quan đến chánh kiến này, trongParamattha saṅkhepa có nói Thân kiến sẽ bị xua tan và thanh tịnh kiến sẽ phát sanh nếu người ta có thể xác lập Danh và Sắc nāma rūpa lần lượt theo tính chất, nhiệm vụ, sự cần thiết, khuynh hướng và căn bản của chúng’. * Ngã Kiến Thô oḷārika-attā diṭṭhi Và Trí Phát Sanh Từ Sự Thấu Triệt Căn Nguyên Và Các Nhân Khác Của Các Hiện Tượng Tâm-Vật Lý Hay Nhân Duyên Phân Biệt Trí paccaya-pariggaha ñāṇā Một số người chủ trương một cách mê lầm rằng có người làm mọi hành động’ – người tạo nghiệp và cũng có người thọ nhận các hậu quả’. Ảo tưởng về Tác Nhân Kiến kāraka diṭṭhi tà kiến cho rằng có một người làm và thọ nhận các quả báo này được gọi là ngã kiến thô. Những người có chánh kiến phân biệt nhân duyên có thể xua tan kāraka diṭṭhi tác nhân kiến và vedāka-diṭṭhi thọ giả kiến. Chánh kiến này cũng có thể xua tan vô nhân kiến ahetuka-diṭṭhi do những người chấp theo thuyết vô nhân’ của hiện hữu, và dị nhân kiến visama hetu-diṭṭhi do những người tin rằng Thượng Đế là người sáng tạo chủ trương. Người có chánh kiến này cũng có thể tiêu diệt tám loại nghi và mười sáu loại nghi thuộc về tri thức hay đạo đức. Ghi chú Trí phân biệt nhân duyên là Đoạn nghi thanh tịnh trí kankhāvitarana-visuddhi-ñāṇa. Ở đây, trí phát sinh từ việc thấu triệt căn nguyên và các nhân khác của các hiện tượng tâm vật lý và trí phát sanh từ sự thanh tịnh do mọi hoài nghi đã được loại trừ là như nhau. Chúng chỉ là những từ đồng nghĩa của chánh kiến phân biệt nhân duyên paccaya pariggaha sammādiṭṭhi. Đại sư Ledi Sayadaw trong Luận giải về các Chân lý tuyệt đối Paramattha-saṅkhepa có nói Nếu một người thấu triệt duyên khởi của các hiện tượng tâm vật lý của hiện hữu, họ sẽ đắc được trí liên hệ đến sự thanh tịnh vượt qua mọi hoài nghi, xua tan mười sáu loại nghi, tám loại nghi, và các loại tà kiến khác.’ Hai loại chánh kiến Chánh kiến phân tích danh sắc và chánh kiến phân biệt nhân duyên, có thể nhổ bật gốc ngã kiến thô vốn khởi lên trong các chúng sinh một cách tích cực. Song chúng không thể bứng gốc thân kiến vi tế ngủ ngầm trong họ, chúng cũng không thể bứng gốc khuynh hướng hoài nghi của họ. Chúng ta biết, khuynh hướng này, thân kiến vi tế này là nhân căn để hay hạt giống của mọi tà kiến. * Thân Kiến Vi Tế Và Minh Sát Trí sukhuma-attā diṭṭhi và Vipassanā-ñāṇa Khi, do quán vô thường, khổ, và vô ngã mà người ta đạt được minh sát trí, thân kiến vi tế và các trạng thái nghi đã bị dập tắt, song thân kiến cực kỳ vi tế và những hoài nghi ngủ ngầm vẫn còn nguyên vẹn. * Thân Kiến Cực Kỳ Vi Tế Và Đạo Quả Trí Ati-sukhuma attā-diṭṭhi và Magga-phala-ñāṇa Khi chánh kiến thuộc Nhập lưu thánh đạo và Nhập lưu thánh quả, tức chánh kiến đầu tiên trong bốn loại chánh kiến siêu thế, phát sanh, thân kiến cực kỳ vi tế và những hoài nghi ngủ ngầm đã bị trục xuất. Một khi thân kiến và nghi đã bị trục xuất hoàn toàn, những hành động độc ác, thấp hèn khiến người ta phải tái sinh trong bốn ác đạo cũng hoàn toàn bị dập tắt. Từ khoảnh khắc ấy tuệ nhãn’, nhờ đó mà người ta có thể chứng ngộ Tứ thánh đế, sẽ khởi lên trong họ một cách thường trực và kiên định. Cho dù họ có phải trải qua các cõi nhân, thiên, và Phạm Thiên trong vòng luân hồi này, song họ sẽ thong dong như những người lương thiện và giới đức, đã an lập trong chánh kiến, giới hạnh, thiền định và trí tuệ; tất cả những điều này sẽ là thường và không bao giờ bị tiêu hoại. Họ sẽ luôn luôn là người hiền lương, giới đức thuộc các giai tầng cao, thọ hưởng sự giàu sang, vinh dự to lớn và có đông đảo kẻ hầu người hạ… Họ sẽ luôn luôn có khả năng thể nhập Tứ Thánh Đế. Trên đây là lời giải thích về những lợi ích của Phật Pháp Buddha’s sāsana mà một vị Nhập lưu sotāpanna, người đã đạt đến thánh đạo và thánh quả đầu tiên, thọ hưởng. Ví Dụ Cái Bát Sắt Bần tăng xin nêu ra đây một ví dụ. Giả sử người kia kiếm được một cái bát sắt còn chắc chắn nhưng rất hoen gỉ. Anh liền bóc lớp gỉ bên ngoài ra bằng một cái đục và thấy được chất sắt màu sẫm. Bước thứ hai, anh ta đánh bóng bề mặt sẫm của cái bát sắt bằng bột đá và bột gạch thì thấy được lớp màu nguyên thủy của cái bát. Bước thứ ba, anh đánh bóng những tạp chất còn lại trên mặt bát bằng một loại bột đá rất mịn để mặt bát trở nên sáng hơn. Lúc ấy cái bát sắt sẽ không còn những tạp chất thô trên bề mặt. Mặc dù cái bát đã hết tạp chất thô ở mặt ngoài, song những tạp chất tế và cực kỳ vi tế nằm ngầm bên trong bát vẫn không suy suyễn, nghĩa là chúng không mất đi mà còn nguyên vẹn như hồi nào đến giờ. Những tạp chất vi tế và cực kỳ vi tế nằm ngầm bên trong cái bát này là căn nguyên của các tạp chất thô có thể hình thành trên mặt ngoài của cái bát bất cứ lúc nào. Thỉnh thoảng khi cái bát bị ẩm hay tiếp xúc với nước acit hoặc nước muối – những nhân tố sinh ra tạp chất – thì những tạp chất tế và cực kỳ vi tế nằm ngầm trong cái bát sẽ giúp cho sự tăng trưởng của những tạp chất thô và cực thô trên bề mặt bát, và một lần nữa cái bát trở nên sẫm màu hoàn toàn. Chủ nhân của cái bát trước đó đã đánh bóng mặt ngoài rồi liền nhúng nó vào dung dịch acit hay một hóa chất nào đó nhiều lần, và bỏ nó vô một cái nồi nấu kim loại được đốt nóng tới một nhiệt độ cao. Lúc ấy các tạp chất vi tế chứa trong cái bát đã trở nên trong sạch, nhưng các tạp chất cực kỳ vi tế trong cái bát sắt chưa hết, chúng vẫn còn nguyên như trước. Cái bát chưa loại hết được mọi tạp chất. Nếu nó tiếp xúc với các điều kiện có thể tạo thành tạp chất mới, thì một lớp bất tịnh mới sẽ lại hình thành trên bề mặt. Cuối cùng, chủ nhân của cái bát đã được làm cho khá sạch trước đó, lại nhúng nó vào trong một dung dịch acit mạnh hơn hay một loại hóa chất được pha chế đặc biệt trong bảy ngày rồi nướng nó trên một ngọn lửa rất nóng trong bảy ngày và bảy đêm. Lúc đó tất cả những tạp chất cực kỳ vi tế chứa trong cái bát bị loại trừ hoàn toàn. Từ khoảnh khắc đó những tạp chất này không còn cơ hội để hình thành lại trong cái bát sắt. Cái bát giờ đây trở thành vô nhiễm có ánh sáng luôn luôn rạng rỡ. Nó đã trở thành một cái bát được xem là chói sáng như một vầng nhật nguyệt. Ở đây, cái bát lúc gỉ sét còn tích tụ trong một thời gian dài cũng giống như kẻ phàm phu còn chấp chặt thân kiến trong vòng luân hồi bất tận vậy. Khi những lớp dày của tạp chất thô đã được bóc ra bằng một cái đục, cũng giống như kẻ phàm phu kia đã tẩy trừ được tiền định kiến pubbekata-hetu-diṭṭhi – quan niệm cho rằng mọi cảm thọ mà các chúng sinh thọ hưởng trong kiếp hiện tại là do nhân, do duyên nghiệp quá khứ, tạo hóa kiến issaranimmāna-hetu-diṭṭhi – quan niệm cho rằng mọi cảm thọ mà các chúng sinh thọ lãnh trong kiếp hiện tại là do Thượng Đế tạo ra và Vô nhân kiến ahetuka-diṭṭhi – quan niệm về sự vô nhân và vô duyên’ của hiện hữu bằng chánh kiến về nghiệp kammassakatā-sammādiṭṭhi – chánh kiến phát sinh từ việc hiểu rằng các chúng sinh là chủ nhân ông của nghiệp. Cái bát sắt khi mặt ngoài của nó đã được đánh bóng bằng bột đá và bột gạch, cũng giống như kẻ phàm phu đã nhổ bật gốc được thân kiến rất thô bằng chánh kiến phân tích danh sắc nāma-rūpa-pariggaha sammādiṭṭhi – chánh kiến phát sanh từ sự thấu triệt các đặc tính của những hiện tượng tâm-vật lý. Cái bát sắt khi được đánh bóng cao cấp hơn một lần nữa bằng một loại bột rất mịn cũng giống như kẻ phàm phu đã xua tan được thân kiến kém thô hơn bằng chánh kiến phân biệt nhân duyên hetu-paccaya-sammādiṭṭhi – chánh kiến phát sinh từ việc thấu triệt căn nguyên và các nhân khác của những hiện tượng tâm-vật lý. Cái bát sắt khi những tạp chất vi tế nằm ngầm trong đó đã được làm cho trong sạch tới một mức nào đó bằng cách xử lý với acit mạnh và dung dịch hóa chất được pha chế đặc biệt rồi đốt nóng tới cao độ trong một cái nồi nấu kim loại, cũng giống như một người đã loại trừ được thân kiến bằng chánh kiến thuộc tri kiến minh sát vipassanā-ñāṇa dassana-sammādiṭṭhi – chánh kiến phát sinh từ sự nhận thức với tuệ minh sát. Cái bát khi đã được chuyển đổi thành cái bát vô nhiễm bằng cách xử lý với acit cực mạnh hay một dung dịch hóa chất trong bảy ngày và bảy đêm, và được nướng trên một ngọn lửa cực nóng trong bảy ngày và bảy đêm khác, như vậy đã loại trừ tất cả những tạp chất một cách tuyệt đối, cũng giống như một vị thánh thuộc siêu thế vức, vị đã tuyệt trừ thân kiến cực kỳ vi tế bằng chánh kiến thuộc đạo quả siêu thế lokuttarā magga-phala-sammādiṭṭhi – chánh kiến phát sanh từ sự chứng đắc các thánh đạo và thánh quả. Những người giới đức mong muốn thọ hưởng những lợi ích của Phật Pháp nên cố gắng hết sức để chứng ngộ năm loại chánh kiến này. Làm Thế Nào Để Có Được Danh Sắc Phân Tích Trí Nāma-rūpa-pariggaha-ñāṇa Về năm loại Chánh kiến, phương pháp để có được kammassakattā-sammādiṭṭhi đã được giải thích tỉ mỉ trong một chương trước. Những người nỗ lực để có chánh kiến phân tích Danh-sắc nāma-rūpa pariggaha-sammādiṭṭhi nên ghi nhận thật kỹ và quán chỉ một danh pháp, danh pháp này nổi bật nhất trong số các hiện tượng tâm lý Danh pháp, và cũng là một hiện tượng chính kết hợp bất khả phân với tất cả các tâm bảy tâm sở biến hành xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, nhất tâm và mạng quyền. Nếu một người tu tập các căn tinh thần ngũ căn tín, tấn, niệm, định, tuệ bằng cách tập trung trên một tâm sở cơ bản và quan trọng, tâm sở vốn kết hợp bất khả phân với tất cả tâm, thì các hiện tượng tâm lý khác cũng sẽ được bao hàm bởi sự quán này, chứ không cần phải quán riêng chúng. Lời này là thực. Trong Nidānavagga của Tương Ưng Bộ Kinh Samyutta-nikaaya, đức Phật tuyên bố rằng nếu một người tuệ tri xúc thực phassa-āhāra – duyên của xúc, họ sẽ liễu tri ba loại thọ, lạc, khổ, bất lạc bất khổ xả và sẽ thành tựu cứu cánh giải thoát. Đức Phật, trong kinh này cũng tuyên bố, nếu một người tuệ tri tư niệm thực mamo-sancetanāhāra – duyên của hành, họ sẽ liễu tri ba loại ái và thành tựu cứu cánh; và nếu một người tuệ tri thức thực viññāṇāhara – duyên của thức, họ sẽ liễu tri danh sắc và thành tựu cứu cánh giải thoát. Trong Mahā-taṅhāsankhaya sutta Ngài cũng dạy cho Đế Thích Thiên Vương Sakka rằng, nếu một người có thể tuệ tri thọ vedanā, họ có thể thành tựu cứu cánh. Ngoài ra, có nhiều bản kinh khác đức Phật dạy phương pháp quán dựa trên một danh pháp hiện tượng tâm lý duy nhất mà thôi. Trong việc quán sắc các hiện tượng vật lý cũng vậy, nếu một người quán tứ đại, họ có thể quán đại chủng nào dễ thấy nhất, và các hiện tượng vật lý sắc pháp khác cũng sẽ nằm trong tầm quán này. Trong chương nói về Kiến tịnh Diṭṭhi-visuddhi của bộ chú giải Thanh Tịnh Đạo Visuddhi-magga Aṭṭhakathā, tiến trình để tuệ tri các đặc tính của các hiện tượng tâm-vật-lý Danh-Sắc đã được trình bày rất đầy đủ và chi tiết, song những điều trình bày ở đó chỉ dành cho những người rất mực thông minh và đặc biệt cho những người đã hiểu rõ Vi Diệu Pháp. Nó không dành cho người mới bắt đầu thực hành thiền quán. Lời này là thực, vì đức Chánh Biến Tri đã không dạy Tạng Diệu Pháp Abhidhamma Piṭaka này ở cõi nhân loại, nơi mà Ngài chỉ đề cập đến những pháp như các thiện nghiệp, năm uẩn, Tạng Diệu Pháp chỉ được Ngài dạy cho các vị chư Thiên trên Thiên giới Đạo Lợi Tāvatimsa mà thôi. Nói chung, ở cõi nhân loại, đức Chánh Đẳng Giác chỉ dạy những hiện tượng tâm-vật-lý hay các Danh pháp và Sắc pháp nào thích hợp với chúng sinh ở đây, cũng như để giúp cho họ khả năng đạt đến trí thuộc chánh kiến siêu thế lokuttarā-sammā diṭṭhi-ñāṇa bằng cách quán các hiện tượng ấy. Ngài không dạy họ chi tiết tất cả các hiện tượng tâm vật lý làm gì. Khi một người theo đuổi những công trình nghiên cứu về Phật giáo, họ sẽ hiểu tất cả những lời dạy trong Tạng Diệu Pháp. Tuy nhiên, khi một người đang quán các hiện tượng tâm-vật-lý nhằm có được chánh kiến thuộc tri kiến minh sát vipassanā-ñāṇa dassana-sammādiṭṭhi – tức là chánh kiến về tính chất vô thường, khổ, và vô ngã qua trí tuệ minh sát, họ không cần thiết phải biết tất cả những gì chứa đựng trong Tạng Diệu Pháp. Họ chỉ cần xem xét kỹ coi pháp môn kinh suttanta-method nào trong số các pháp môn đã được giảng dạy trong Trung bộ Majjhima-Nikāya hoặc Tương Ưng Bộ Samyutta Nikāya phù hợp nhất với mục đích của mình, rồi cố gắng để đạt đến Danh Sắc phân tích trí bằng pháp môn đó. Để làm được như vậy, trước tiên hành giả phải có được những chỉ dẫn từ một bậc thầy thiền quán có khả năng và đã đắc danh-sắc phân tích trí nāma-rūpa pariggaha-ñāṇa. Ngược lại, nếu hành giả chỉ dựa vào tri thức của mình và quán theo ý thích, có thể hành giả cũng thành tựu được mục tiêu mong mỏi, nhưng phải mất một thời gian khá lâu, hoặc có thể không hoàn thành tựu mục đích ấy cũng có. Làm Thế Nào Để Có Nhân Duyên Phân Biệt Trí Paccaya-pariggaha-ñāṇa – Trí phát sinh từ sự tuệ tri căn nguyên và những nhân khác của các hiện tượng tâm-vật lý Trong nỗ lực để đạt đến Chánh kiến phân biệt nhân duyên hetu-paccaya-pariggaha-sammādiṭṭhi – chánh kiến phát sinh từ sự tuệ tri căn nguyên và các nhân khác của các hiện tượng tâm-vật-lý, hành giả phải quán các pháp sau hợp với tinh thần kinh văn āhāra-samudaya rūpa samudayo’ Do có vật thực, các sắc sanh Do có xúc, thọ sanh Do có danh Sắc, thức sanh Do nhãn căn và cảnh sắc làm duyên, nhãn thức sanh Các hiện tượng tâm-vật-lý danh-Sắc khởi sanh theo nguyên lý Duyên Sanh. Làm Cách Nào Để Đắc Minh Sát Tuệ Khi tu tập các căn ngũ căn tinh thần để đạt đến tuệ minh sát, hành giả phải quán như sau Do vật thực diệt, các sắc diệt Do xúc diệt, thọ diệt Do các hành nghiệp diệt, thức diệt Do thức diệt, danh sắc hay các hiện tượng tâm-vật-lý diệt. Do danh Sắc diệt, lục nhập diệt. Do lục nhập diệt, xúc diệt. Do xúc diệt, thọ diệt. Do thọ diệt, ái diệt. Như vậy, bất cứ khi nào các nhân diệt, các quả cũng sẽ diệt. Theo lời Đức Phật dạy yadaniccam, tam dukkham’, pháp nào thực sự vô thường anicca, pháp ấy hoàn toàn không có lạc sukha, và trong thực tế đó chỉ là khổ dukkhathuần túy. Yam dukkham tadanattā’, pháp dhamma nào chỉ thuần khổ dukkha, thời không thể nương vào pháp ấy như là tự ngã atta. Pháp thuần chỉ có khổ này không nên xem như một pháp có thể bị thống trị bởi ý muốn của con người vậy. Chánh Kiến và Nghiệp Thiền sư Ledi Sayadaw nguồn Visits 2170 Tu tập THÂN KIẾN LÀ GÌ? Câu hỏi của Mỹ Linh HỎI Kính thưa Thầy! Thân kiến là gì? Có phải là những kiến chấp về thân, coi trọng cái thân không? Có phải nó làm cho mình giảm nghị lực để chiến thắng mọi khó khăn, mọi hoàn cảnh về thời tiết bệnh hoạn? Rồi nó luận tu pháp này dễ hơn, khỏe hơn Vô vi, Yoga để mình xa dần pháp môn chân chánh của đạo Phật? Nếu con muốn phá được thân kiến phải tu tập những gì để có sức tự chủ? Con cúi xin Thầy giúp con thoát khỏi hoặc ngăn ngừa những sai lầm! ĐÁP Con hiểu về thân kiến rất đúng. Trên đời, người ta khổ vì chấp thân là của ta, gặp hoàn cảnh khó khăn, gặp việc khó khăn, gặp khí hậu thời tiết, bệnh tật khó khăn là ta đi tìm cách tránh né cho khỏe thân hơn, tức là chấp ngã. Tu hành là phải xả tâm; diệt ngã, ly dục, ly ác pháp quá khó khăn, khiến cho thân tâm phải mệt nhọc từng phút, từng giây, để chiến đấu làm chủ đời sống của mình. Vì tu hành quá vất vả, nhiều người nản chí và thối tâm chạy theo tu các pháp môn Tịnh Độ, Mật Tông, Thiền Tông, Vô vi, Yoga, Đó là do bệnh chấp ngã, xem ngã trọng, sợ ngã mệt nhọc, để tu các pháp khác an ổn, hỷ lạc hơn, ngồi thiền nhiều khỏe hơn. Tất cả những lý luận này là lý luận chấp ngã, nuôi ngã, dưỡng ngã. Người chấp ngã, nuôi ngã là đi ngược lại đường lối tu tập của đạo Phật, thì dù có tu muôn kiếp cũng khó giải thoát được. Tu như vậy thì tu để làm gì, tốt hơn sống ngoài đời có đạo đức nhân bản – nhân quả còn khỏe hơn là chạy đi tìm dục lạc trong thiền định. Nếu nói để trị bệnh, thì làm sao thiền định trị bệnh được. Bệnh gốc do nhân quả, muốn trị thì phải trị bằng nhân quả, sao lại trị bệnh bằng thiền tưởng? Thiền tưởng chỉ làm cho chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái và phục hồi những rối loạn chức năng của cơ thể, chứ không thể chữa hết nghiệp nhân quả bệnh khổ. Muốn phá được thân kiến thì chỉ có các pháp thiền định của đạo Phật 1- Định Niệm Hơi Thở. 2- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác. 3- Định Vô Lậu. 4- Định Sáng Suốt. Hằng ngày phải chuyên cần tu tập pháp hướng tâm, “tâm như cục đất lìa tham, sân, si hết” thì thân kiến mới dứt. Trích sách Đường về xứ Phật – Tập 7, NXB Tôn Giáo – 2011, trang 274-276 Số lượt xem bài 1700 Con có một thắc mắc kính nhờ Thầy giảng cho con biết. Câu hỏi Kính thưa Thầy Thân kiến có nghĩa là mình vẫn còn thấy thân body hiện hữu. Nếu không còn có thân kiến, Hoài nghi và giới cấm Thủ thì vị ấy chứng được Tu Đà Hườn như trong sách của quý Thầy Cô giảng. Chỗ con không hiểu là mắt thấy, tai nghe, thân xúc chạm đều phải qua thân hết. Nếu không qua thân thì làm sao có được thấy, nghe, biết… nhưng sách vở lại nói không có thân. Con mắt, lỗ tai… đều nằm trên thân cả! Chẳng lẽ khi nói không có thân thì con cho thí dụ như trời mưa, thân bị ướt không cần thiết phải che thân, mặc quần áo không cần phải theo ý niệm là sạch sẽ, tươm tất… bởi vì nếu làm theo ý niệm đó thì còn có thân kiến rồi. Con bị lấn cấn để hiểu rõ đúng ý nghĩa của thân kiến trong Đạo. Con cảm ơn Thầy. Ảnh minh họa Trả lời Không phải hiểu thân theo nghĩa đó đâu. Chữ thân này ám chỉ ngũ uẩn. Thân kiến là quan niệm chấp 5 uẩn là ngã. Không còn thân kiến có nghĩa là không còn chấp 5 uẩn là bản ngã nữa. Theo Trung tâm Hộ tông HỖ TRỢ CHÚNG TÔI Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng. STK 117 002 777 568 Ngân hàng Công thương Việt Nam Nội dung Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp Cùng lan toả Đạo Pháp. Danh từ phần chính, nơi chứa đựng các cơ quan bên trong của cơ thể động vật, hoặc mang hoa lá của cơ thể thực vật thân cây thân người sâu đục thân cơ thể con người, về mặt là thể xác, thể lực, nói chung đau toàn thân tấm thân to lớn Đồng nghĩa thân thể phần giữa và lớn hơn cả, thường là nơi để chứa đựng, hoặc mang nội dung chính thân tàu làm bằng thép phần thân bài thân đê bộ phận chính của áo, quần, được thiết kế theo kích thước nhất định thân quần thân áo cái cá nhân, cái riêng tư của mỗi người chỉ biết lo cho thân mình được sướng thân Danh từ thường viết hoa kí hiệu thứ chín trong địa chi lấy khỉ làm tượng trưng; sau mùi, trước dậu, dùng trong phép đếm thời gian cổ truyền của Trung Quốc và một số nước châu á, trong đó có Việt Nam tuổi Thân sinh vào một năm Thân Tính từ có quan hệ rất gần gũi và gắn bó mật thiết với nhau hai người rất thân nhau đôi bạn thân Trái nghĩa dưng, sơ 1/ – Biên kiến là một trong năm ác kiến, gồm có Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, giới cấm thủ kiến, Kiến thủ kiến . Theo như đạo hữu hỏi trong thư, chúng tôi xin trích đoạn “Những Mộng Đàm về Phật Giáo Thiền Tông” của Quốc sư Mộng Sơn do Huỳnh Kim Quang dịch, Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới ấn hành nhằm nói rõ biên kiến như sau “Người chưa giác ngộ nghĩ rằng những niềm tin mà họ tưởng là thật, chính là căn nguyên, do đó, một khi họ đặt niềm tin vào bất cứ giáo nghĩa của trường phái nào, họ đều bác bỏ tất cả các trường phái khác. Một khi họ đặt niềm tin vào một người nào đó như là bậc đạo sư của họ, họ nghĩ rằng giáo nghĩa của mọi người khác đều là thấp kém, và ngay cả từ chối nghe bất cứ điều gì khác. Những người như vậy là những kẻ khờ dại nhất trong những người khờ dại . Cũng có người ôm giữ mãi do dự và không quyết đoán, bởi vì những giáo nghĩa của nhiều trường phái và các vị đạo sư khác biệt nhau . Thức ăn có nhiều mùi vị; cái nào có thể được xác định như là tinh chất? Như thể chất của con người khác nhau, vị giác của họ cũng vậy . Một số người thì thích ngọt bùi; một số người khác thì ưa thức ăn cay . Nếu các ngài nói rằng mùi vịmà các ngài thích là mùi vị tinh chất và phần còn lại là vô dụng, các ngài chính thật là kẻ khờ dại . Như thế, theo giáo lý đạo Phật thì bởi vì các ý thú tự nhiên của con người khác biệt nhau, có thể là, một giáo nghĩa đặc biệt nào đó, là giá trị đặc thù đối với một cá nhân nào đó được ban cho, nhưng nó trở thành sai lầm nếu người ta chấp chặt lấy nó như là điều duy nhất và chân lý duy nhất, để loại bỏ tất cả những giáo nghĩa khác …”… Trang 152 Trong Kinh Tăng Chi Anguttara Nikaya có một kinh gọi là Kinh Kamala. Đức Phật có nói với một Bà La Môn khi đến hỏi Phật ”Đừng tin tưởng một điều gì vì phong văn . Đừng tin tưởng điều gì vì nó là tập quán lưu truyền. Đừng tin tưởng điều gì vì được nhiều người nói đi nhắc lại . Đừng tin tưởng điều gì vì là bút tích của thánh nhân. Đừng tin tưởng những thói quen đã có từ lâu khiến ta cho là đúng. Đừng tin tưởng một điều gì do ta tưởng tượng nhưng lại nghĩ rằng do một vị thần linh đã khai thị cho ta . Đừng tin tưởng bất cứ một điều gì do các thầy có uy tín dạy . Chỉ tin tưởng cái gì mà chính các người đã từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, đồng thời có lợi cho mình và kẻ khác. Chỉ có điều đó mới làm cho con người và cuộc đời được thăng hoa . “ trích 2. Thân kiến Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP, tập 7, ĐVXP, tập 7 Hỏi Kính thưa Thầy! Thân kiến là gì? Có phải là những kiến chấp về thân, coi trọng cái thân không? Có phải nó làm cho mình giảm nghị lực để chiến thắng mọi khó khăn, mọi hoàn cảnh về thời tiết bệnh hoạn? Rồi nó luận tu pháp này dễ hơn, khỏe hơn Vô vi, Yoga để mình xa dần pháp môn chân chánh của đạo Phật? Nếu con muốn phá được thân kiến phải tu tập những gì để có sức tự chủ? Con cúi xin Thầy giúp con thoát khỏi hoặc ngăn ngừa những sai lầm! áp Con hiểu về thân kiến rất đúng. Trên đời, người ta khổ vì chấp thân là của ta, gặp hoàn cảnh khó khăn, gặp việc khó khăn, gặp khí hậu thời tiết, bệnh tật khó khăn là ta đi tìm cách tránh né cho khỏe thân hơn, tức là chấp ngã. Tu hành là phải xả tâm; diệt ngã, ly dục, ly ác pháp quá khó khăn, khiến cho thân tâm phải mệt nhọc từng phút, từng giây, để chiến đấu làm chủ đời sống của mình. Vì tu hành quá vất vả, nhiều người nản chí và thối tâm chạy theo tu các pháp môn Tịnh ộ, Mật Tông, Thiền Tông, Vô vi, Yoga, ó là do bệnh chấp ngã, xem ngã trọng, sợ ngã mệt nhọc, để tu các pháp khác an ổn, hỷ lạc hơn, ngồi thiền nhiều khỏe hơn. Tất cả những lý luận này là lý luận chấp ngã, nuôi ngã, dưỡng ngã. Người chấp ngã, nuôi ngã là đi ngược lại đường lối tu tập của đạo Phật, thì dù có tu muôn kiếp cũng khó giải thoát được. Tu như vậy thì tu để làm gì, tốt hơn sống ngoài đời có đạo đức nhân bản – nhân quả còn khỏe hơn là chạy đi tìm dục lạc trong thiền định. Nếu nói để trị bệnh, thì làm sao thiền định trị bệnh được. Bệnh gốc do nhân quả, muốn trị thì phải trị bằng nhân quả, sao lại trị bệnh bằng thiền tưởng? Thiền tưởng chỉ làm cho chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái và phục hồi những rối loạn chức năng của cơ thể, chứ không thể chữa hết nghiệp nhân quả bệnh khổ. Muốn phá được thân kiến thì chỉ có các pháp thiền định của đạo Phật 1- ịnh Niệm Hơi Thở. 2- ịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. 3- ịnh Vô Lậu. 4- ịnh Sáng Suốt. Hàng ngày phải chuyên cần tu tập pháp hướng tâm “Tâm như cục đất, lìa tham, sân, si hết” thì thân kiến mới dứt. trích kiến “Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp bất thiện đã sanh đi đến tăng trưởng, quảng đại; các pháp thiện chưa sanh không sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, như tà kiến. Với người có tà kiến, này các Tỷ-kheo, các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp bất thiện đã sanh đi đến tăng trưởng, quảng đại; các pháp thiện chưa sanh không sanh khởi, và các pháp thiện đã sanh bị đoạn diệt”. Kinh Tà Kiến, phẩm Chủng Tử, Tăng Chi Bộ. Tà kiến là cái thấy biết sai lệch. Nó là nguồn gốc của mọi bất thiện. Tất cả những điều tội lỗi có mặt trên đời là do nó. Bài kinh Chánh Tri Kiến thuộc Trung Bộ Kinh có giải về chánh kiến như sau “Chư Hiền, khi Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bản bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri được căn bản thiện, chư Hiền, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này”. Tuệ tri ở đây không phải là hiểu biết suông, kiến thức mà nó là sự biết rõ nhờ nghe, suy tư và thể nghiệm. Kinh giải bất thiện là sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói láo, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, ác khẩu, tham dục, sân nhuế, tà kiến. Căn bản của bất thiện là tham, sân, si. Thiện là những điều ngược lại với bất thiện. Căn bản của thiện là không tham, không sân, không si. Không tuệ tri được các pháp đó, tức là bị tà kiến. Người thế gian do có tà kiến nên mới hằng ngày tạo vô số nghiệp tội. Vì tạo nghiệp tội nên phải chịu quả khổ mãi không thôi. Trong kinh Phạm Võng thuộc Trường Bộ Kinh có nói đến 62 tà kiến, được chia như sau tà kiến chấp theo quá khứ có 18 điều, 5 phần là thường kiến có 4 nguyên do, thường vô thường kiến có 4 nguyên do, biên vô biên kiến có 4 nguyên do, vô ký kiến có 4 nguyên do, vô nhân sinh kiến có 2 nguyên do và tà kiến chấp theo vị lai có 44 điều, 5 phần là hữu tưởng kiến có 16 nguyên do, vô tưởng kiến 8 nguyên do, phi tưởng phi phi tưởng kiến có 8 nguyên do, đoạn kiến có 7 nguyên do, Niết-bàn hiện tại kiến có 5 nguyên do. Trích bản giải Siêu Lý Tiểu Học do HT. Tịnh Sự dịch. Để hiểu rõ hơn, quý vị hãy đọc kinh Phạm Võng. Sư Toại Khanh giảng bài kinh Phạm Võng đã gom 62 tà kiến thành 2 tà kiến là thường kiến và đoạn kiến. Sư giải thích như sau 1. Thường kiến + Tin vào cái tôi vĩnh cửu. + Tin vào một bề trên có toàn quyền sinh sát, một đấng sáng tạo hóa. + Tin vào một cứu cánh thoát khổ nào đó đi ngược với lý nhân quả. 2. Đoạn kiến + Vô nhân kiến cho rằng mọi thứ ngẫu nhiên có, không do nhân quả gì hết. + Vô hành kiến cho rằng thiện ác giống hệt nhau, chỉ là hành động mà thôi, có thể tha hồ sống và hành động theo ý thích. + Vô hữu kiến cho rằng những gì mình không chứng minh được, không thấy không nghe là không có, không thật. Hiểu đơn giản là một cái cho rằng chết rồi là còn mãi ví dụ người chết vẫn được làm người, vật chết vẫn làm vật hay chết là lên thiên đường sống mãi mãi hay xuống địa ngục mãi mãi; một cái cho rằng chết rồi là mất hẳn. Do quan điểm sai lầm như thế, nên người ta mới sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, tham lam, sân nhuế, tà kiến, mê tín dị đoan mà không có sợ hãi nhân quả sẽ đến với mình. Do không có ánh sáng của đức Phật nên tà kiến như thế đã được nhiều người chấp nhận và rao giảng. Kinh Pháp Cú có câu “Đường dài cho kẻ mệtĐêm dài cho kẻ thứcLuân hồi dài, kẻ nguKhông biết chân diệu pháp”. Vì không biết chân diệu pháp nên kẻ ngu cứ mãi tạo nghiệp, do tạo nghiệp nên kẻ ngu tiếp tục luân hồi, chịu nhiều khổ đau. Kinh Chánh Tri Kiến còn dạy, xin được tóm gọn, đó là tuệ tri thức ăn, tập khởi thức ăn, đoạn diệt thức ăn, con đường đi đến đoạn diệt thức ăn. Tuệ tri về khổ, tập, diệt, đạo Tứ diệu đế. Tuệ tri mỗi chi phần của 12 nhân duyên như tuệ tri về già chết, tập khởi của già chết, đoạn diệt của già chết, con đường đưa đến đoạn diệt già chết… Tương tự cho 11 chi phần còn lại là sinh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục xứ, danh sắc, hành, vô minh. Cuối cùng là tuệ tri lậu hoặc, tập khởi lậu hoặc, đoạn diệt lậu hoặc, con đường đi đến đoạn diệt lậu hoặc. Để hiểu rõ hơn, xin quý vị đọc kinh Chánh Tri Kiến trong Trung Bộ Kinh. Tóm lại, không biết rõ về thiện ác, thức ăn, Tứ diệu đế, lý duyên khởi nhân duyên, nhân quả, lậu hoặc tức là không có chánh tri kiến. Không có chánh kiến tức là tà kiến. Hành động, lời nói, suy nghĩ hợp với tà kiến là hành động tà, lời nói tà, suy nghĩ tà. Ví dụ do không rõ thiện ác, nhân quả nên suy nghĩ tham của người, hận thù người, gây hại cho người, lời nói dối trá, lừa đảo, ma ranh, sát sinh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, xem tướng, bói toán, cúng sao giải hạn, cúng thần tài, các hình thức mê tín dị đoan trái luật nhân quả… Thế gian không thoát được khổ đau bởi vì tà kiến lẫy lừng mà trong kinh hay nói là rừng rậm tà kiến. Lý duyên khởi dạy “Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này có thì cái kia có”. Suy ra, tà kiến sinh thì tà tư duy sinh, tà tư duy sinh thì tà ngữ sinh, tà ngữ sinh là tà nghiệp sinh, tà nghiệp sinh là tà mạng sinh, tà mạng sinh là tà tinh tấn sinh, tà tinh tấn sinh là tà niệm sinh, tà niệm sinh là tà định sinh, tà định sinh là tà trí sinh. Như vậy, tà sinh là tất cả các điều ác sinh, các điều thiện bị diệt mất. Trăm người thế gian là trăm người muốn thoát khổ. Nguyên nhân không rõ thì không thể đoạn diệt khổ. Khổ sinh do nghiệp sinh, nghiệp sinh do vô minh sinh. Vô minh chính là tà kiến. Lý duyên khởi dạy “Cái này diệt thì cái kia diệt, cái này không thì cái kia không”. Vì vậy, để diệt khổ thì phải diệt tà kiến. Diệt tà kiến là chỉ cần có chánh kiến, có chánh kiến là nhờ tuệ tri thiện ác, thức ăn, Tứ diệu đế, lý duyên khởi, lậu hoặc. Đầu tiên là tìm hiểu các kinh nói về thiện ác, Tứ diệu đế, lý duyên khởi rồi tìm kiếm chú giải, hoặc sách, hoặc video giảng về các vấn đề trên. Sau đó, đọc nghe và nghiền ngẫm cho thông suốt. Cuối cùng, áp dụng thực hành trong đời sống hiện thực. Nếu tìm hiểu mà không thông thì phải tìm những bậc Thầy sáng suốt giải đáp. Nếu muốn giác ngộ thì không thể bỏ qua việc tu tập chánh kiến, đoạn diệt tà kiến. Sư Toại Khanh giảng, để đoạn diệt tà kiến thì phải thường xuyên quán “Mọi thứ có mặt, hiện hữu ở đời là do duyên”. Ví dụ con người và các loài động vật, thực vật sống được là nhờ vô số duyên như mặt trời, ánh sáng, nhiệt độ, hơi ấm, khí hậu, thời tiết, không khí, nước, mưa, mây, gió, tầng ozon, sông, suối, núi, biển, hồ, ao, đất, cát, kim loại, các loại lực vật lý, trao đổi chất, di truyền, năng lượng, các định luật vật lý, hóa học, sinh học… Quán chiếu để thấy rõ bản chất của các pháp là không. “Không” không phải là không có mà “không” là không tự tánh, không độc lập, không bản ngã, không đấng sáng tạo. Chúng vận hành theo lý duyên khởi lý duyên sinh và lý duyên diệt. Từ ví dụ này, chúng ta có thể suy nghĩ thêm nhiều ví dụ tương tự. Với một chút kiến thức nho nhỏ, người viết xin được chia sẻ. Hy vọng, người có duyên sẽ đọc và yêu thích trong việc tu học Phật pháp. Cuối lời, kính chúc những người có duyên đọc bài viết này được nhiều sức khỏe, hạnh phúc trong cuộc sống. Tâm Huỳnh Xem thêm 62 loại tà kiến 4. Giới cấm thủ Từ Có hai khái niệm khác nhau nhưng đa số người học Phật nhầm lẩn, đồng hoá chúng, không phân biệt chúng rõ ràng, đó là GIỚI và LUẬT.* GIỚI là những lời nói, hành động, ăn uống nuôi mạng có tính chất “trong sạch”, đó là những lời nói, hành động không có sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượi và các chất gây say sưa, nghiện ngập . Trong Bát Chánh Đạo, gồm ba nhóm ba uẩn Giới – Định – Tuệ thì Giới chính là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Đây là lời nói, hành động xẩy ra trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo do Chánh kiến làm nhân mà phát sinh. Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng được gọi là Giới vì nó không do Tham Sân Si khởi lên, không còn là tác nhân phát sinh Khổ. Vì vậy, Giới Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng không còn TẠO TÁC RA KHỔ nên gọi là VÔ TÁC GIẢI THOÁT, là một trong ba giải thoát Không giải thoát, Vô tướng giải thoát, Vô tác giải thoát . Giới phát sinh do Định Chánh định và Tuệ Chánh kiến trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo theo tuần tự XÚC – – Trí nhớ Chánh – Tích cực Chánh – Chú tâm Chánh – [ Trực giác ] – Tư duy Chánh – Hiểu biết Chánh – Quyết định chánh – Lời nói Chánh, Hành động Chánh, Nuôi mạng Chánh.– [ ] * LUẬT là những điều học, những quy định mà Đức Phật chế định ra, những điều cấm kỵ bắt buộc người học phải tuân thủ như cấm sát sanh, cấm trộm cắp, cấm tà dâm…. nhằm đưa đến lời nói hành động được “trong sạch”, để có Giới. Luật của Phật tử tại gia có 5 điều cấm hoặc 8 điều cấm, luật của Tỷ kheo có 227 điều cấm, Tỷ kheo ny có trên 300 điều cấm … Luật còn gọi là Giới bổn hay tiếng Pali gọi là Patimokha. Nguyên do Đức Phật chế định Giới bổn Patimokha, gồm các điều luật, những điều cấm kỵ, những điều không được làm là do một số Tỷ kheo không tu tập Bát Chánh Đạo, không có Chánh Định Định , không có Chánh Kiến Tuệ nên không có Giới Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng . Lời nói, hành động của họ do không tu tập Bát Chánh Đạo, không có Giới mà nó phát sinh từ Bát Tà Đạo, nên nó là Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng do Tham Sân Si khởi lên. Những lời nói, hành động đó làm phát sinh một số tệ nạn trong đời sống Tăng đoàn, làm xáo động đời sống của các Tỷ kheo hiền thiện, làm cho quần chúng chưa có lòng tin không có được lòng tin, làm cho ai có lòng tin nơi Chánh pháp bị sụt giảm. Những điều luật, những điều cấm kỵ mà Đức Phật chế định nhằm chế ngự hạng người không có Giới này, chứ không phải là giữ trọn những điều cấm kỵ Luật sẽ phát sinh Định, Định sẽ phát sinh Tuệ Giới Luật sinh Định, Định sinh Tuệ như các chú giải, luận giải sau này.– [ ] GIỚI và LUẬT là hai khái niệm khác nhau mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng gồm Pháp và Luật, trong đó GIỚI thuộc về Pháp, còn LUẬT hiểu đúng là Luật lệ được quy định trong đời sống Tăng đoàn thuộc về Luật. Vì GIỚI thuộc về Pháp, thuộc Tạng Kinh, nên có tính chất là “không bị chi phối bởi thời gian, không gian” nên bất kỳ vị Phật nào thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai thuyết giảng lộ trình tâm Bát Chánh Đạo đều thuyết giảng về Định, Tuệ, Giới, bất cứ ai, nơi nào, thời gian nào mà Bát Chánh Đạo khởi lên thì đều có GIỚI, đều có Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng như nhau không sai khác. LUẬT thuộc về Tạng Luật, là luật lệ được đặt ra nên nó thay đổi theo thời gian và không gian, tuỳ theo thời gian và địa điểm mà nó được chế ra, được áp dụng. Có những điều luật chỉ áp dụng cho chỗ này mà không áp dụng cho chỗ kia, cho thời gian này mà không cho thời gian kia. Vì vậy, trong 20 năm đầu của lịch sử Tăng đoàn chưa có một điều luật nào được chế định, và trước khi nhập diệt Đức Phật đã căn dặn Sau khi Như Lai nhập diệt, chư Tăng có thể bỏ đi một số điều luật học giới nhỏ nhặt không quan trọng . Trong Tạng Luật cũng đã nói rõ, trong sáu vị Phật quá khứ xuất hiện trước Đức Phật Gotama thì chỉ có 3 vị có chế định các điều luật, 3 vị còn lại không chế định, không lưu hành một điều luật, một cấm kỵ nào.– [ ] Giới cấm thủ và Giới trong Bát Chánh Đạo lấy một Giới cụ thể là hành vi không sát sanh để hiểu về tất cả Giới – [ ] – Giới cấm thủ Những người chưa học hỏi về Đạo Phật, chưa tiếp xúc với Đạo Phật, chưa nghe nói đến cấm kỵ sát sanh thì họ có thể có hành vi sát sanh. Hành vi sát sanh của họ hoặc do Tham, hoặc do Sân, hoặc do Si. Sát sanh do Tham như thích thịt ngon của con vật, thích nhiều tiền nên làm nghề đồ tể …, sát sanh do Sân như bị con muỗi đốt nên tức giận đập chết con muỗi …, sát sanh do Si là tìm kiếm niềm vui trong việc sát sanh như ngày chủ nhật rãnh rỗi đi tìm thú vui trong câu cá, bắn chim… Những người được nghe giảng sát sanh sẽ bị đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tương lai sẽ bị bệnh tật, kiếp sau sinh ra sẽ bị đui què mẻ sứt, sẽ sống trong nghèo khổ, tật bệnh …. Không sát sanh thì kiếp sau sẽ được làm người tốt đẹp, khỏe mạnh giàu có. Do nghe, hiểu và tin như vậy nên những điều đã học được lưu giữ vào bộ nhớ tâm thức. Khi những người này đối diện với tình huống tương tự thì do Trí nhớ, nhớ lại những điều đã học trên mà sẽ khởi lên Hiểu biết nếu sát sanh sẽ bị đọa địa ngục, ngạ quỷ …, nếu không sát sanh thì tương lai sẽ hạnh phúc … Do Hiểu biết như vậy mà sẽ phát sinh hành vi Thích thú tham hạnh phúc do không sát sanh, Sợ hãi sân nỗi khổ của sát sinh. Và do Thích, do Ghét Tham Sân như vậy mà những người đó sẽ không sát sanh, họ thành tựu Giới không sát sinh. Nhưng Giới thành tựu như vậy do Tham, do Sân mà khởi lên nên gọi là Giới Cấm Thủ. Mọi Giới khác thành tựu nhưng do Tham, do Sân, do Si thì đều thuộc Giới Cấm Thủ, không phải là Giới trong Giới Luật bậc Thánh.– [ ] – Giới thành tựu trong Bát Chánh Đạo Những người đã nghe giảng về Tứ Thánh Đế có được Hiểu biết đúng sự thật Nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si, Chấm dứt Tham Sân Si là Chấm dứt Khổ. Sát sanh là do Tham Sân Si, sẽ đưa đến khổ, không sát sanh sẽ nhiếp phục rồi đoạn tận tham sân si, sẽ chấm dứt khổ. Khi đối diện tình huống tương tự nếu họ Nhớ được điều đã học trên Chánh niệm thì họ sẽ có Hiểu biết đúng sự thật về Khổ Tập Diệt Đạo Chánh kiến và do Hiểu biết đó mà họ sẽ không sát sanh, thành tựu được Giới không sát sanh. Giới được thành tựu như vậy không do Tham Sân Si mà do Chánh niệm Trí nhớ chánh , do Chánh kiến Hiểu biết chánh trên Bát Chánh Đạo mà thành tựu nên đó chính là Giới trong Giới Luật bậc Thánh.– [ ] Chỉ khi nào tu tập Bát Chánh Đạo, an trú lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế với BA TRỤ CỘT là Chánh Niệm Trí nhớ Chánh – Chánh Định Chú tâm Chánh – Chánh Kiến Hiểu biết Chánh gọi tắt là Niệm – Định – Tuệ thì lúc đó GIỚI mới được thành tựu. Giới được thành tựu do Chánh Niệm – Chánh Đinh – Chánh Kiến Niệm – Định – Tuệ mới là Giới trong Giới Luật bậc Thánh. Khi không tu tập Bát Chánh Đạo, không có Niệm – Định – Tuệ thì lộ trình tâm đó là Bát Tà Đạo với Tà Niệm – Tà Định – Tà Kiến, với Tham Sân Si, Phiền não và nếu thành tựu Giới thì Giới đó là Giới Cấm Thủ. Muốn hiểu đúng và tu đúng theo Chánh Pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và thuyết giảng, mức đầu tiên là bậc Thánh Nhập lưu thì phải Chấm Dứt Giới Cấm Đức Nguyên Tuệ, 03/10/ 2. 1 ví dụ giới cấm thủ Giới cấm thủ chính là khi ta giữ gìn giới luật Phật mà thiếu trí tuệ, không uyển chuyển. Thành ra cứng nhắc, thậm chí gây trở ngại trong việc tu. Câu chuyện sau đây sẽ giúp ta dễ hiểu hơn Trong một chuyến tàu đi từ tỉnh này sang tỉnh nọ trên biển. Chiếc tàu này chở rất nhiều nhà Sư tu hành, trong đó có một Vị đã đắc đạo. Khi tàu đi ra giữa biển khơi, được hai ba ngày thì tàu gặp bão. Vì bão nên tàu phải ghé vào một hòn đảo giữa biển để nghỉ một hai ngày. Sau khi hết bão, tàu tiếp tục đi và ra khơi lại. Nhưng lượng lương thực theo như dự kiến đã dần cạn kiệt. Vị cao tăng đắc đạo trên tàu là người tu hạnh đầu đà. Ngài chỉ ăn ngày một buổi, không quá ngọ, và chỉ ngủ ngồi, cả đời không nằm. Bữa trưa hôm đó Ngài đã dùng bữa. Và đến chiều mọi người dùng bữa, nhưng Ngài không dùng, vì Ngài chỉ ăn ngày một bữa. Tuy nhiên, khi mọi người dùng xong, trong nồi vẫn còn dư hai bát mì. Và người nấu bếp định đổ chúng xuống biển. Nhìn thấy vậy, Vị cao tăng kêu người nấu bếp lại và nói cho Ngài hai bát mì đó. Và thế là Ngài ăn luôn hai bát mì đó. Rõ ràng ta thấy trên luật là phạm giới, tuy nhiên với Ngài lúc này lại là không. Vì Ngài không có tâm hưởng thụ và vì hoàn cảnh đang hết lương thực. Tuy nhiên, khi không giữ giới, ta cần cân nhắc rất cẩn thận, đắn đo suy nghĩ kĩ lưỡng. Nếu không ta sẽ bị phạm giới, chứ không phải giới cấm thủ. 3. Hiểu cho đơn giản – Giới cấm thủ là chấp giữ vào giới, không thể buông bỏ. Trong đạo Phật, giới là rất quan trọng trong việc tu hành, nhưng vào giai đoạn chót, muốn được giải thoát thì tâm không thể bị vướng mắc vào bất cứ thứ gì, kể cả giới. Ai chưa xả bỏ được thì chưa thể giải thoát. CÂU CHUYỆN VỀ CÔ GÁI TRẺ, HAI NHÀ SƯVÀ 12 CHỮ KHIẾN CUỘC ĐỜI BẠN LUÔN PHIỀN NÃOCó một vị hòa thượng già dẫn theo một tiểu hòa thượng đi thỉnh kinh. Khi tới bờ sông, một cô gái muốn qua sông, không chút đắn đo, lão hòa thượng đã cõng cô gái qua sông, cô gái sau khi cảm ơn thì đi mất, tiểu hòa thượng trong lòng cứ thắc mắc “ Sư phụ sao có thể cõng một cô gái qua sông như thế?”. Nhưng cậu ta không dám hỏi, cứ thế đi mãi được 20 dặm, cậu ta thực sự không kìm được đành hỏi sư phụ “Chúng ta là người xuất gia, sao thầy có thể cõng một cô gái qua sông?” Sư phụ điềm đạm nói “Ta cõng cô gái qua sông thì đã đặt cô ta xuống từ lâu rồi, còn con đã cõng cô gái ấy 20 dặm rồi mà vẫn chưa bỏ được cô ta ra khỏi đầu sao?”.”Câu trả lời của vị lão hòa thượng chứa đựng một thông điệp mà có lẽ bất kỳ ai cũng cần khắc cốt ghi tâm 5. Kiến thủ kiến Dṛṣṭi-paramarsa-dṛṣṭi S, Dṛṣṭiparamarsa S, Uddhacca P, Restlessness, Anuddhatya STrạo cử, Kiến đẳng thủ kiến Cố chấp vào ý kiến của mình, tự cho là đúng hơn cả. Chấp trước những kiến giải phi lý. Một trong Thập sử. Trên đây là ý nghĩa của từ kiến thủ kiến trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật. Kiến thủ là gì? _ Kiến là nhận thức, là quan điểm. Thủ là nắm giữ, cố chấp. Vậy kiến thủ là cố chấp vào một nhận thức, quan điểm. Cho nên nói cố chấp là bị kẹt; vì bị kẹt nên cánh cửa chân lý không có cơ hội mở ra cho những ai cố chấp. Đức Phật soi sáng ý nghĩa tai hại của sự cố chấp bằng chuyện kể như sau có anh chàng thương gia góa vợ kia, sống với đứa con trai duy nhất của mình; anh ta cưng quí đứa con và coi như đó là lẽ sống của mình. Một ngày kia khi anh ta đi công việc bên ngoài, ở nhà kẻ cướp đến đốt làng phá xóm, cướp bóc xong bắt đứa con của anh ta đi theo. Khi về tới nhà, anh ta thấy thi thể một em bé cháy đen nằm bên căn nhà cháy rụi của mình. Anh ta tin ngay rằng con trai mình đã chết, anh ta khóc than thảm thiết rồi đem hỏa táng và cất giữ tro vào một cái túi gấm, đi đâu cũng mang theo bên mình. Mấy tháng sau, đứa con của anh trốn được khỏi tay bọn cướp chạy về nhà lúc nửa đêm, gỏ cửa đòi vào nhà. Người cha lúc ấy đang ôm chiếc túi gấm than khóc 1 mình, không chịu đứng dậy ra mở cửa; anh ta tin rằng con anh ta đã chết thật rồi còn đứa trẻ đang gỏ cửa đó là 1 đứa bé nào đó muốn chọc phá anh; vì vậy mà đứa con thật của anh phải ra đi và người cha tội nghiệp kia vĩnh viễn mất đứa con thật của mình! Kiến thủ là gì? _ Kiến là nhận thức, là quan điểm. Thủ là nắm giữ, cố chấp. Vậy kiến thủ là cố chấp vào một nhận thức, quan điểm. Cho nên nói cố chấp là bị kẹt; vì bị kẹt nên cánh cửa chân lý không có cơ hội mở ra cho những ai cố chấp. Đức Phật soi sáng ý nghĩa tai hại của sự cố chấp bằng chuyện kể như sau có anh chàng thương gia góa vợ kia, sống với đứa con trai duy nhất của mình; anh ta cưng quí đứa con và coi như đó là lẽ sống của mình. Một ngày kia khi anh ta đi công việc bên ngoài, ở nhà kẻ cướp đến đốt làng phá xóm, cướp bóc xong bắt đứa con của anh ta đi theo. Khi về tới nhà, anh ta thấy thi thể một em bé cháy đen nằm bên căn nhà cháy rụi của mình. Anh ta tin ngay rằng con trai mình đã chết, anh ta khóc than thảm thiết rồi đem hỏa táng và cất giữ tro vào một cái túi gấm, đi đâu cũng mang theo bên mình. Mấy tháng sau, đứa con của anh trốn được khỏi tay bọn cướp chạy về nhà lúc nửa đêm, gỏ cửa đòi vào nhà. Người cha lúc ấy đang ôm chiếc túi gấm than khóc 1 mình, không chịu đứng dậy ra mở cửa; anh ta tin rằng con anh ta đã chết thật rồi còn đứa trẻ đang gỏ cửa đó là 1 đứa bé nào đó muốn chọc phá anh; vì vậy mà đứa con thật của anh phải ra đi và người cha tội nghiệp kia vĩnh viễn mất đứa con thật của mình!

thân kiến là gì