Ở lứa tuổi này các thanh thiếu niên đã có những nhận thức và lí lẽ của riêng mình. Có thể, có những em đã có những suy nghĩ rất trưởng thành. Tuy nhiên cũng có những em chưa có những suy nghĩ chín chắn, và có những hành động bộc phát. Ngày quốc tế thanh thiếu niên ra
Sự hiện ra tự ý thức ngơi nghỉ lứa tuổi tuổi teen là một quá trình lâu dài, trải qua gần như mức độ không giống nhau. Ở tuổi tuổi teen quá trình phát triển tự ý thức ra mắt mạnh mẽ, sôi sục và có đặc thù đặc thù riêng: Thanh niên mong muốn tìm đọc và reviews những điểm sáng lâm lý của mình theo ý kiến về mục đích cuộc sống và tham vọng của mình.
Thiếu nhi là mấy tuổi? Để trả lời cho thắc mắc tuổi thiếu nhi là bao nhiêu thì trước hết, POPS Kids xin chia sẻ hiện nay Liên Hợp Quốc quy định người thành niên là người đã đủ 18 tuổi, còn người chưa thành niên là người từ 18 tuổi trở xuống. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng những người chưa thành
Nội dung. 1 Tại sao nên giáo dục giới tính cho trẻ từ sớm; 2 Tìm hiểu giáo dục giới tính theo từng lứa tuổi. 2.1 Giáo dục giới tính cho trẻ từ 13 đến 24 tháng tuổi; 2.2 Giáo dục giới tính cho trẻ mẫu giáo; 2.3 Giáo dục giới tính cho học sinh tiểu học; 2.4 Giáo dục giới tính khi đến tuổi vị thành niên
Đưa công tác Đoàn và phong trào thanh niên, thiếu nhi thành phố phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn mới. Thứ Hai, 10/10/2022, 13:08 [GMT+7] Trong đó, cần lựa chọn phương thức giáo dục phù hợp, thu hút với từng lứa tuổi, đối tượng đoàn viên, thanh niên, thiếu nhi; không
Giáo án tuần 10 - tiết 1. Sinh hoạt dưới cờ - Kịch tương tác "nghiện trò chơi điện tử ở lứa tuổi thiếu niên" sách hoạt động trải nghiệm 7 kết nối tri thức. Được thiết kế theo công văn 5512, chi tiết, đầy đủ. Giáo án là bản word, có thể tải về và dễ dàng chỉnh sửa. Bộ giáo án có đầy đủ các
wPbZTb9. Từ điển mở Wiktionary Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm Mục lục 1 Tiếng Việt Cách phát âm Danh từ Tham khảo Tiếng Việt[sửa] Cách phát âm[sửa] IPA theo giọng Hà Nội Huế Sài Gòn lɨə˧˥ tuə̰j˧˩˧lɨ̰ə˩˧ tuəj˧˩˨lɨə˧˥ tuəj˨˩˦ Vinh Thanh Chương Hà Tĩnh lɨə˩˩ tuəj˧˩lɨ̰ə˩˧ tuə̰ʔj˧˩ Danh từ[sửa] lứa tuổi Tuổi của những người sinh cùng năm hoặc một thời gian ngắn trước hay sau. Lứa tuổi dậy thì. Lứa tuổi hai mươi lăm đã biết suy nghĩ cân nhắc chín chắn. Tâm lý học lứa tuổi. tâm lý học nghiên cứu sự phát triển tâm lý và những đặc điểm tâm lý của trẻ em ở các lứa tuổi khác nhau Tham khảo[sửa] "lứa tuổi". Hồ Ngọc Đức, Dự án Từ điển tiếng Việt miễn phí chi tiết Lấy từ “ Thể loại Mục từ tiếng ViệtMục từ tiếng Việt có cách phát âm IPADanh từĐịnh nghĩa mục từ tiếng Việt có ví dụ cách sử dụngDanh từ tiếng Việt
Vào giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên, trẻ bắt đầu phát triển khả năng tư duy trừu tượng, tư duy logic. Suy nghĩ phức tạp ngày càng tăng này dẫn đến tăng cường nhận thức về bản thân và khả năng phản ánh về cái tôi cá nhân. Do nhiều thay đổi thể chất đáng chú ý của trẻ vị thành niên, sự tự nhận thức này thường chuyển thành ý thức tự giác, kèm theo cảm giác lúng túng. Trẻ vị thành niên cũng có mối bận tâm với vẻ bề ngoài, sức hấp dẫn và nhạy cảm cao đối với sự khác biệt so với bạn đồng trang thiếu niên cũng áp dụng các khả năng phản ánh mới của mình vào các vấn đề đạo đức. Trẻ tiền vị thành niên hiểu đúng và sai là cố định và tuyệt đối. Các trẻ vị thành niên lớn hơn thường đặt câu hỏi về các chuẩn mực về hành vi và có thể phản đối với những quy tắc truyền thống- dẫn đến sự sửng sốt của cha mẹ. Một cách lý tưởng, các phản ánh này đạt đến đỉnh cao của sự phát triển và cá nhân hóa những quy tắc đạo đức của riêng lứa tuổi vị thành niên. Khi trẻ vị thành niên gặp phải việc học tập phức tạp hơn, chúng bắt đầu xác định các lĩnh vực quan tâm cũng như điểm mạnh và điểm yếu tương đối. Vị thành niên là khoảng thời gian mà những người trẻ tuổi bắt đầu xem xét lựa chọn nghề nghiệp, mặc dù hầu hết không có một mục tiêu xác định rõ ràng. Các bậc cha mẹ và bác sỹ lâm sàng phải nhận thức được khả năng của thanh thiếu niên, giúp người trẻ tuổi xây dựng kỳ vọng thực tế và chuẩn bị để xác định những trở ngại đối với việc học tập cần được khắc phục, như khó khăn về học tập Tổng quan về rối loạn học tập Các rối loạn học tập là điều kiện gây ra sự khác biệt giữa hiệu suất học tập tiềm năng và trên thực tế được dự đoán vởi khả năng trí tuệ của trẻ. Các rối loạn học tập liên quan đến các khiếm... đọc thêm , vấn đề chú ý Tăng động/giảm chú ý ADD, ADHD Rối loạn tăng động giảm chú ý ADHD là một hội chứng bao gồm không chú ý, hiếu động thái quá và hấp tấp, bốc đồng. 3 dạng ADHD chủ yếu là giảm chú ý, tăng động/bốc đồng, và kết hợp cả hai dạng... đọc thêm , vấn đề về hành vi Các vấn đề về hành vi ở thanh thiếu niên Thanh niên là lứa tuổi phát triển sự tự lập. Thông thường, thanh thiếu niên thực hiện tính độc lập của mình bằng cách chất vấn hoặc thách thức các quy tắc của cha mẹ hoặc người giám hộ, đôi... đọc thêm , hoặc môi trường học tập không phù hợp. Các bậc cha mẹ và bác sỹ lâm sàng nên tạo điều kiện cho việc học nghề và trải nghiệm khác để cho thanh thiếu niên có cơ hội nghề nghiệp tiềm năng hơn trong thời gian đi học ở trường hoặc trong các kỳ nghỉ học. Những cơ hội này có thể giúp thanh thiếu niên tập trung lựa chọn nghề nghiệp và việc tiếp tục học tập trong tương lai. Trong giai đoạn thanh thiếu niên, các vùng não điều khiển cảm xúc phát triển và trưởng thành. Giai đoạn này được đặc trưng bởi những bộc phát do tự phát mà có là thách thức đối với cha mẹ và giáo viên - những người thường xuyên phải hứng chịu. Thanh thiếu niên dần dần học cách kiềm chế những suy nghĩ và hành động không phù hợp và thay thế chúng bằng những hành vi định hướng có mục cạnh tăng trưởng về cảm xúc được thử nghiệm nhiều nhất, thường xuyên thử thách sự kiên nhẫn của cha mẹ, thầy cô và bác sỹ lâm sàng. Tính không ổn định về cảm xúc là một kết quả trực tiếp của sự phát triển thần kinh trong thời kỳ này, như là phần của não kiểm soát sự trưởng thành cảm xúc. Sự thất vọng cũng có thể nảy sinh từ sự tăng trưởng trong nhiều lĩnh vực. Một xung đột lớn có thể xảy ra giữa mong muốn có thêm tự do của trẻ vị thành niên và bản năng mạnh mẽ của cha mẹ để bảo vệ con cái của họ khỏi những nguy hại. Cha mẹ có thể giúp đỡ trẻ bằng việc nói chuyện với con về vai trò của họ và từ từ cho phép các con của họ được hưởng nhiều đặc quyền hơn cũng như và mong muốn trẻ có trách nhiệm cao hơn với bản thân và gia tiếp trong các gia đình có nhiều định kiến có thể khó khăn và càng khó khăn hơn khi các gia đình bị chia rẽ hoặc cha mẹ có vấn đề về tình cảm của riêng mình. Các bác sĩ lâm sàng sẽ giúp đỡ rất nhiều bằng cách đưa ra cho thanh thiếu niên và phụ huynh những phương án hợp lý, thiết thực, cụ thể, hỗ trợ tạo điều kiện cho giao tiếp trong gia đình. Gia đình là trung tâm của đời sống xã hội cho trẻ em. Trong giai đoạn vị thành niên, nhóm bạn cùng tuổi bắt đầu đặt gia đình như là mối quan tâm xã hội hàng đầu của trẻ. Các nhóm bạn cùng tuổi bạn đồng lứa thường được thiết lập vì có sự khác biệt về trang phục, ngoại hình, thái độ, sở thích, mối quan tâm, và các đặc điểm khác mà có thể có vẻ sâu sắc hoặc bình thường đối với người ngoài. Ban đầu, các nhóm bạn đồng lứa thường là những người cùng giới tính nhưng thường trở nên hỗn hợp sau này ở tuổi vị thành niên. Các nhóm này có vai trò quan trọng đối với thanh thiếu niên bởi vì họ đưa ra sự xác nhận về các lựa chọn dự kiến của thanh thiếu niên và hỗ trợ chúng trong các tình huống căng thiếu niên tự thấy mình không có một nhóm bạn bè thân đồng trang lứa có thể cảm thấy cô lập và khác biệt. Mặc dù những cảm giác này thường không kéo dài, nhưng chúng có thể tăng khả năng xảy ra các hành vi không phù hợp hoặc phản xã hội. Ở thái cực khác, nhóm đồng trang lứa có thể được xem như quá quan trọng, cũng dẫn đến hành vi chống xã hội. Thành viên nhóm Bạo lực trở nên phổ biến hơn khi môi trường gia đình và xã hội không thể làm cân bằng các đòi hỏi không thuộc chức năng của nhóm. Các bác sĩ lâm sàng nên sàng lọc tất cả thanh thiếu niên về các rối loạn sức khỏe tâm thần Tổng quan các rối loạn tâm thần ở trẻ em và vị thành niên Mặc dù đôi khi giả định rằng thời thơ ấu và tuổi vị thành niên là những khoảng thời gian hạnh phúc vô tư, khoảng 20% trẻ em và thanh thiếu niên có một hoặc nhiều những rối loạn tâm thần có thể... đọc thêm , chẳng hạn như trầm cảm Rối loạn trầm cảm ở trẻ em và vị thành niên Rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi nỗi buồn hoặc khó chịu nghiêm trọng hoặc dai dẳng, đủ để ảnh hưởng đến chức năng hoặc gây ra phiền toái đáng kể. Chẩn đoán dựa vào hỏi bệnh và thăm khám... đọc thêm , rối loạn lưỡng cực Rối loạn lưỡng cực ở trẻ em và thanh thiếu niên Rối loạn lưỡng cực được đặc trưng bởi các giai đoạn hưng cảm, trầm cảm, và tâm trạng bình thường, mỗi lần kéo dài hàng tuần cho đến vài tháng một lần. Chẩn đoán dựa trên các tiêu chí lâm sàng... đọc thêm và lo lắng Tổng quan các rối loạn lo âu ở trẻ em và vị thành niên Các rối loạn lo âu được đặc trưng bởi sự sợ hãi, lo lắng, hay kinh hãi làm suy giảm rất nhiều khả năng hoạt động bình thường và điều đó là không cân xứng với hoàn cảnh hiện tại. Lo âu có thể... đọc thêm . Tỷ lệ mắc rối loạn về sức khoẻ tâm thần tăng lên trong giai đoạn này của cuộc đời và có thể dẫn đến ý tưởng hoặc hành vi tự sát Hành vi tự sát ở trẻ em và thanh thiếu niên Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm . Rối loạn tâm thần, chẳng hạn như tâm thần phân liệt Tâm thần phân liệt ở trẻ em và vị thành niên Bệnh tâm thần phân liệt là sự có mặt của các ảo giác và hoang tưởng làm rối loạn chức năng tâm lý xã hội đáng kể và kéo dài ≥ 6 tháng. Xem thêm Tâm thần phân liệt ở người trưởng thành. Khởi... đọc thêm , mặc dù hiếm, thường xuất hiện trong thời kỳ thanh thiếu niên muộn. Rối loạn ăn uống Giới thiệu về rối loạn ăn uống Rối loạn ăn uống bao gồm một rối loạn liên tục về việc ăn uống hoặc hành vi liên quan đến việc ăn uống mà Thay đổi sự tiêu thụ hoặc hấp thu thực phẩm Gây suy giảm đáng kể sức khỏe thể chất và/hoặc... đọc thêm , như là chán ăn tâm thần Chán ăn tâm thần Chán ăn tâm thần được đặc trưng bởi sự theo đuổi không ngừng một cách cực đoan về hình thể mỏng manh, nỗi sợ hãi về bị béo phì, hình ảnh cơ thể bị méo mó, và hạn chế ăn vào so với nhu cầu, dẫn... đọc thêm và ăn vào là nôn ra Ăn vô độ tâm thần Ăn vô độ tâm thần được đặc trưng bởi các giai đoạn cuồng ăn lặp đi lặp lại, theo sau là một số hành vi bù trừ như tự đào thải thức ăn tự gây ra nôn ói, thuốc nhuận tràng hoặc thuốc lợi tiểu... đọc thêm , là khá phổ biến ở các bé gái và có thể khó phát hiện vì thanh thiếu niên trải qua rất nhiều cố gắng để che giấu hành vi và thay đổi cân nặng. Ngoài việc thích ứng với những thay đổi cơ thể, thanh thiếu niên phải trở nên thoải mái với vai trò của người lớn và phải hình dung trước và suy nghĩ thấu đáo sự hấp dẫn về tình dục, có thể rất mạnh mẽ và đôi khi đáng sợ. Giới tính sinh học đề cập đến tình trạng sinh học của một người nam, nữ, hoặc liên lộ giới tính là mục tiêu, biểu hiện công khai về nhân dạng giới và bao gồm tất cả mọi thứ mà mọi người nói và làm để chỉ cho chính họ và cho người khác thấy mức độ mà họ xác định giới tính của số thanh thiếu niên gặp khó khăn với vấn đề xác định tình dục và có thể sợ tiết lộ nhận dạng tình dục hoặc giới tính của họ với bạn bè hoặc thành viên trong gia đình. Thanh thiếu niên có thể cảm thấy không mong muốn hoặc không được chấp nhận bởi gia đình hoặc bạn bè nếu họ thể hiện mong muốn tình dục hoặc bản dạng giới nhất định. Áp lực như vậy đặc biệt là trong thời gian để xã hội chấp nhận là rất quan trọng có thể gây ra căng thẳng nghiêm trọng. Sợ cha mẹ bỏ rơi, đôi khi thực sự, có thể dẫn đến việc giao tiếp không trung thực hoặc ít nhất là giao tiếp không hoàn toàn giữa thanh thiếu niên và cha mẹ họ. Những thanh thiếu niên này cũng có thể bị chế giễu và bắt nạt Bắt nạt Trẻ em và thanh thiếu niên có thể tham gia vào các cuộc đối đầu về thể xác thường xuyên, nhưng hầu hết không phát triển mẫu hành vi bạo lực bền vững hoặc tham gia vào các vụ phạm tội bạo lực... đọc thêm bởi những người bạn đồng trang lứa. Các mối đe dọa về bạo lực thể xác cần được xem xét một cách nghiêm túc và báo cáo cho nhà trường hoặc các cơ quan chức năng khác. Sự phát triển cảm xúc của thanh thiếu niên cần được hỗ trợ tối đa bởi các bác sỹ lâm sàng, bạn bè và thành viên trong gia đình. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.
Tuổi thiếu niên được xác định trong khoảng từ 11 – 15 tuổi. Đây là giai đoạn có nhiều thay đổi cả về tâm sinh lý và xã hội dẫn đến những biến đổi sâu sắc về mặt tâm lý, nhân cách. Giai đoạn tuổi thiếu niên thường được gắn với những cách gọi như “tuổi bất trị” , ” khủng hoảng tuổi thiếu niên”. Việc nắm được những đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này là rất cần thiết để các bậc cha mẹ có cách đối xử tác động tới con phù hợp. Sự phát triển về mặt sinh lý Giai đoạn này cơ thể đang diễn ra quá trình cải tổ hình thái sinh lý một cách mạnh mẽ và mang tính chất không cân đối. Về chiều cao đây là thời kỳ nhẩy vọt về tầm vóc, xương tay chân dài ra nhưng xương ngón tay, ngón chân lại phát triển chậm. Điều này làm cho hoạt động của trẻ trở nên lóng ngóng vụng về. Về hệ cơ chứa nhiều nước, chưa phát triển hết nên các em chóng mệt và không có khả năng làm việc cao. Ở cuối giai đoạn này, khối lượng cơ và lực cơ phát triển mạnh đặc biệt là ở các em trai. Về hệ xương xương sống và xương tứ chi phát triển mạnh nhưng xương lồng ngực phát triển chậm vì thế làm cho các em có vẻ gầy còm, không cân đối. Về hoạt động tim mạch sự phát triển của hệ thống tim mạch cũng không cân đối. Thể tích của tim tăng rất nhanh, hoạt động của tim mạnh mẽ hơn, nhưng kích thước của mạch máu lại phát triển chậm. Do đó có một số rối loạn tạm thời của hệ tuần hoàn, tăng huyết áp, tim đập nhanh, gây nhức đầu chóng mặt mệt mỏi khi làm việc. Sự trưởng thành về mặt sinh dục đây là yếu tố quan trọng của sự phát triển thể chất, trong giai đoạn này gây nhiều ảnh hưởng đến tâm lý các em. Đặc điểm giới tính bộc lộ rõ nét và tuyến sinh dục bắt đầu hoạt động ở các em nữ xuất hiện hiện tượng kinh nguyệt, ở các em nam xuất hiện hiện tượng xuất tinh lần đầu. Sự dậy thì đã kích thích ở lứa tuổi này mối quan tâm đến người khác giới làm nẩy sinh những rung cảm, xúc cảm giới tính mới lạ. Dậy thì sớm và các biện pháp can thiệp Biểu hiện bất thường về giới trước 10 tuổi đối với bé trai, và trước 9 tuổi đối với bé gái. Những biểu hiện đó thường là + Trẻ gái có tuyến vú, có lông sinh dục và bắt đầu có thể có kinh nguyệt + Trẻ trai cơ bắp phát triển, giọng nói trầm ồm, có ria mép, dương vật dài ra, có lông sinh dục và có thể xuất tinh đôi khi trẻ còn thủ dâm Dậy thì sớm ảnh hưởng lớn đến tâm lý của trẻ tầm vóc bất thường khiến trẻ bị bạn bè trêu chọc, dễ bị các đối tượng xấu lạm dụng tình dục…, khi trưởng thành thường có chiều cao thấp hơn các bạn cùng độ tuổi. Biện pháp can thiệp Muốn điều trị trước hết cần xác định trẻ dậy thì sớm theo thể nào trong hai thể chính Dậy thì sớm thể thực, dậy thì sớm giả để có hướng điều trị phù hợp. Những lời khuyên chung dành cho người lớn kiểm soát các nguồn thông tin trẻ tiếp nhận từ bên ngoài, dạy cho trẻ kỹ năng tự phòng vệ để tránh bị lợi dụng tình dục… Sự phát triển về mặt xã hội Địa vị của các em trong gia đình đã thay đổi, được gia đình thừa nhận là một thành viên tích cực, được giao nhiệm vụ cụ thể, được tham gia bàn bạc một số công việc của gia đình. Ở nhà trường, hoạt động học tập có nhiều thay đổi tác động mạnh đến đời sống tâm lý của các em. Ngoài xã hội lứa tuổi này được thừa nhận như một thành viên tích cực, tham gia hoạt động công tác xã hội. Vì thế mối quan hệ của các em được mở rộng, tầm hiểu biết, kinh nghiệm sống, nhân cách của các em được phát triển phong phú hơn so với các giai đoạn trước. Sự phát triển của các quá trình nhận thức – Tri gác khối lượng tri giác tăng lên, có trình tự, có kế hoạch và hoàn thiện hơn, có khả năng phân tích và tổng hợp phức tạp khi tri giác sự vật và hiện tượng. – Trí nhớ trí nhớ dần dần mang tích chất có điều khiển, điều chỉnh và có tổ chức. – Tư duy đặc điểm nổi bật của hoạt động tư duy là sự thay đổi mối quan hệ giữa tư duy hình tượng sang tư duy trừu tượng, khái quát mà sự chiếm ưu thế của tư duy trừu tượng là đặc điểm cơ bản về hoạt động tư duy ở lứa tuổi phê phán của tư duy cũng được phát triển. Đời sống tình cảm Tình cảm của các em sâu sắc, phong phú, đa dạng và phức tạp hơn ở giai đoạn trước. Tuy nhiên rất dễ xúc động, mang tính bồng bột, dễ bị kích động, vui buồn chuyển hoá nhanh chóng. Trong mối quan hệ với bạn bè xuất hiện tình cảm khác giới, có nguyện vọng được bạn khác giới quan tâm, yêu thích. Tình cảm bắt đầu phục tùng ý chí, tình cảm đạo đức phát triển mạnh, tình cảm bạn bè, tình tập thể, tình đồng chí cũng được phát triển. Xuất phát từ việc coi trọng tình bạn, muốn giao tiếp với bạn cùng tuổi mà ở các em có nguyện vọng được khẳng định vị trí của mình trong tập thể. Các em có khát vọng mạnh mẽ đó là muốn chiếm vị trí được tôn trọng trong nhóm bạn bè cùng tuổi. Nguyện vọng này thể hiển nhu cầu tự khẳng định và có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển tâm lý, nhân cách của thiếu niên. Các em có cảm xúc nặng nề nếu quan hệ với bạn bị tổn thương, mất bạn, sự tẩy chay của bạn bè. Khuynh hướng muốn làm người lớn Khuynh hướng muốn làm người lớn thể hiện về nội dung và hình thức như trong học tập các em muốn độc lập lĩnh hội tri thức, có quan điểm và lập luận riêng. Trong phạm vi ý thức xã hội, các em đòi hỏi mong muốn người lớn quan hệ, đối xử với mình bình đẳng như đối xử với người lớn. Tuy nhiên sự không thay đổi và cách ứng xử giữa người lớn với các em gây ra không ít những xung đột ở lứa tuổi này. Có ý thức rõ rệt về giới tính, quan tâm đến đời sống tình cảm của người lớn vì thế lứa tuổi này thường có tâm lý phóng đại các năng lực của mình, thường đánh giá cao hơn hiện thực, thể hiện dưới dạng bướng bỉnh, tỏ ra bất cần trước những việc làm hàng ngày cũng như những thất bại mà các em trải nghiệm. Sự khủng hoảng trong lứa tuổi thiếu niên Nguyên nhân bên ngoài vị trí xã hội của thiếu niên có sự thay đổi, các em có vị trí trung gian không ổn định giữa người lớn và trẻ em, cùng với việc các em được giao nhiệm vụ nhiều hơn, được người lớn đòi hỏi sự cư xử nghiêm chỉnh hơn. Nguyên nhân bên trong thiếu niên ý thức được sự phát triển của cơ thể theo hướng người lớn, cùng với việc xuất hiện sự rung cảm mới của các em. Sự phát triển nhân cách Các em thường cố gắng bắt chước những mẫu người lý tưởng mà các em tự lựa chọn làm thần tượng của mình. Sự phấn đấu vươn lên theo hình mẫu lý tưởng đó giúp thiếu niên hình thành những phẩm chất ý chí như sức mạnh, lòng dũng cảm, tinh thần vượt khó khăn để đạt mục đích. Tuy nhiên sự ngưỡng mộ, sùng bái các giá trị này không phải lúc nào cũng phát triển theo chiều hướng phù hợp với những giá trị đạo đức xã hội tích cực. Sự phát triển của tự ý thức Sự hình thành tự ý thức ở các em là quá trình diễn ra dần dần. Cơ sở đầu tiên của sự tự ý thức là sự tự đánh giá của người khác, nhất là người lớn. Dần dần các em bắt đầu có khuynh hướng độc lập phân tích và đánh giá nhân cách của mình hơn. Sự hứng thú Hứng thú của thiếu niên phát triển khá mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, thể hiện ở sự quan tâm đến kết quả hoạt động, đến bản chất, ý nghĩa của hoạt động, thể hiện ở thái độ tích cực với hiện tượng khách quan. Tuy nhiên hứng thú các em còn nhiều hạn chế cụ thể như – Do muốn thoả mãn nhiều lĩnh vực nên hứng thú còn tản mạn, chưa ổn định, dễ thay đổi. – Hứng thú chủ yếu thiên về hoạt động thực tiễn có tính chất kỹ thuật đơn giản. – Hứng thú còn mang tính chất bay bổng thiếu thực tế. Vệ sinh tâm lý tuổi thiếu niên Ở lứa tuổi này nhân cách của các em được phát triển một cách mạnh mẽ, tự ý thức đã bắt đầu hình thành các quan niệm về cuộc sống rõ ràng hơn và các quan hệ xã hội bước đầu được mở rộng. Hoạt động chủ đạo của trẻ lúc này là học tập. Các biện pháp vệ sinh tâm lý được đan xen với hoạt động học tập cho trẻ. Cần tránh tạo gánh nặng trí tuệ và tránh thúc ép các em học quá sức, cả về văn hóa, thể thao, âm nhạc, hội họa … Ở cuối lứa tuổi này, trẻ dễ có những khủng hoảng tâm lý đi kèm với những biến đổi mạnh mẽ về sinh lý. Đối với trẻ em gái, nếu không được chuẩn bị chu đáo về tâm lý cho lần thấy kinh nguyệt đầu tiên các em dễ bị những mặc cảm nặng nề, ở trẻ em trai sự phát triển tâm lý giới tính cũng chuyển sang thời kỳ mới. Nếu các em bị những tác động xấu của video đen, phim ảnh đồi trụy… thì rất dễ có những hành vi chống đối xã hội, phi đạo đức. Các biện pháp vệ sinh tâm lý đối với lứa tuổi này gắn liền với công tác giáo dục của nhà trường, sự quan tâm của gia đình và xã hội.
Tháng Mười 16, 2015 Tư vấn tâm lý 11,030 Lượt xem Hướng Nghiệp Học Đường xin được giới thiệu đến quý thầy cô cùng các bậc phụ huynh và các em học sinh Đặc điểm tâm lý lứa tuổi thiếu niên từ 11 – 15 tuổi – Ở lứa tuổi thiếu niên nhận thức có tính chủ định phát triển mạnh. Đặc điểm tri giác có chủ định, phát triển cao khả năng quan sát và đang dần hình thành tính người lớn. Tuy nhiên còn hấp tấp vội vàng, tính tổ chức và tính hệ thống còn kém. Trong học tập giáo viên cần tích cực rèn luyện kĩ năng quan sát cho các em học sinh. – Lứa tuổi thiếu niên có trí nhớ từ ngữ logic phát triển mạnh, áp dụng thao tác tư duy để ghi nhớ chính xác hiệu quả. Tuy nhiên còn nhiều mâu thuẫn và thiếu sót, ghi nhớ máy móc. Ở nhà trường giáo viên cần dạy cho học sinh phương pháp ghi nhớ có ý nghĩa phân đoạn theo ý nghĩa, lập dàn ý, tách ý làm điểm tựa. – Độ tuổi thiếu niên có tư duy phát triển mạnh, có khả năng phân tích, suy luận, tổng hợp, trừu tượng và khái quát hóa phát triển. Trong dạy học cần rèn cho các em thao tác tư duy, phát triển tư duy trừu tượng, kỹ năng suy nghĩ độc lập và có phê phán. – Lứa tuổi thiếu niên có khả năng tưởng tượng và “Thần tượng hóa” khi xây dựng hình mẫu lý tưởng còn xa rời thực tế. – Các em ở lứa tuổi thiếu niên có sức tập trung chú ý cao hơn, lâu hơn và có thể phân tán chú ý nếu không hấp dẫn, điều kiện học tập không tốt phức tạp, có mâu thuẫn đòi hỏi giáo viên cần tổ chức giờ học có nội dung phù hợp gây hứng thú và chủ động cho các em. – Xúc cảm ở lứa tuổi thiếu mang tính ổn định, do nhận thức được nguyên nhân gây nên xúc cảm, nên có thể làm chủ được xúc cảm và bản thân. Xúc cảm xuất hiện trong giao tiếp với bạn bè –thầy cô-cha mẹ -> người lớn tổ chức những hoạt động tích cực -> hình thành đời sống tình cảm đẹp. – Tình cảm ở lứa tuổi thiếu được thể hiện với gia đình, bạn bè, tình yêu, trí tuệ và thẩm mỹ. + Tình cảm gia đình Do nhận thức được vai trò trong gia đình và giao tiếp ngoài xã hội nên các em có ý thức trách nhiệm với gia đình. + Tình cảm bạn bè Có nhu cầu kết bạn để chia sẻ những vấn đề trong học tập, gia đình . . . các em cần tình bạn chân thành, bền vững. + Tình cảm khác giới tình yêu Xuất hiện nhu cầu yêu đương sự phát triển cơ thể + mở rộng giao tiếp + tính người lớn. Tình cảm trí tuệ và thẩm mỹ. – Tình cảm còn biểu hiện sinh lý, nhận thức, hành vi cử chỉ và điệu bộ. Khi giáo dục xúc cảm – tình cảm cho thiếu niên, nhà giáo dục tránh tạo ra những cơn xúc động mạnh ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ của thiếu niên, tôn trọng nhu cầu chính đáng của các em. – Lứa tuổi thiếu niên có cảm giác mình là người lớn, nguyện vọng hòa mình vào tập thể, tìm một chỗ đứng trong lòng tập thể. Tự nhận thức về bản thân mình, nhận thức về sự trưởng thành của bản thân, tìm hiểu phẩm chất và năng lực riêng của bản thân và của người khác. Khả năng đồng nhất với giới tính hình thành những xúc cảm, tình cảm mới, bắt chước người lớn. Có nhu cầu đánh giá bản thân, đánh giá người khác, so sánh mình với người khác cảm nhận mình là người lớn, rung cảm với những hành vi của mình dễ tự kiêu, tự ti hoặc mặc cảm. Hình thành sự tự giáo dục khi chưa hài lòng với mục đích đề ra, tự đề ra mục đích để thực hiện. Đây là thời kì chuyển tiếp từ trẻ con sang người lớn, là thời kì phát triển đầy khó khăn, phức tạp, biến động và khủng hoảng. Nhà giáo dục hướng dẫn, động viên, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho tự ý thức của các em phát triển để tự giáo dục hỗ trợ đắc lực cho giáo dục nhà trường và gia đình. Liên quan Tương lai với sức khoẻ học đường Cùng tìm hiểu về sức khỏe học đường Sức khoẻ học đường hiện nay đang ...
Đang xem Thiếu niên là gì, tìm hiểu các khái niệm về Độ tuổi English “Thiếu nhi” là ai? Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt, đó là “trẻ em thuộc các lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng” Hoàng Phê chủ biên, 1992, “Thiếu nhi” là dạng rút gọn của “thiếu niên nhi đồng”. “Thiếu niên” và “nhi đồng” là những từ Việt gốc Hán có nghĩa chỉ các lứa tuổi khác nhau. Trong từ “nhi đồng”, “nhi” có nghĩa là “đứa bé”, “đồng” cũng tương tự với nghĩa “đứa trẻ”. Trong tiếng Việt, “nhi đồng” là “trẻ em thuộc lứa tuổi từ bốn – năm đến tám – chín” Từ điển tiếng Việt, sđd, Trong từ “thiếu niên”, “thiếu” có nghĩa là “trẻ” như thiếu nữ cô gái trẻ, thiếu phụ người vợ trẻ, “niên” là “năm, tuổi”. “Thiếu niên” là “tuổi trẻ” nhưng trong tiếng Việt, nó mang nghĩa cụ thể hơn, là “trẻ em thuộc lứa tuổi từ mười – mười một đến mười bốn – mười lăm” Từ điển tiếng Việt, sđd, Như vậy, theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt, thiếu nhi là trẻ em thuộc độ tuổi từ bốn – năm đến mười bốn – mười lăm. Xem thêm Repeater Wifi Repeater Là Gì ? Có Nên Sử Dụng Repeater Hay Không? Xem thêm Là Gì? Nghĩa Của Từ Trân Trọng Là Gì ? Nghĩa Của Từ Trân Trọng Trong Tiếng Việt Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng, “thiếu nhi” được dùng với nghĩa tương đương với “trẻ em”. Gần nghĩa với “thiếu nhi”, trong tiếng Việt có nhiều từ, chẳng hạn trẻ con, trẻ thơ, trẻ nhỏ, con nít… Những từ này thường được dùng với nghĩa chung chung, ít có sự giới hạn độ tuổi rõ ràng. Vậy, thiếu nhi hay trẻ em là người nằm trong độ tuổi nào? Các công ước quốc tế về liên quan việc bảo vệ quyền con người, quyền của phụ nữ và trẻ em mà Việt Nam đã tham gia ký kết và là thành viên đều quy định trẻ em là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật hiện hành ở nước ta, có nhiều quy định về độ tuổi trẻ em. Chẳng hạn, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi. Còn Bộ luật Dân sự không dùng thuật ngữ “trẻ em”, mà dùng thuật ngữ “người chưa thành niên” và quy định là những người dưới 18 tuổi. Thực tế cho thấy, xã hội chưa có cách hiểu chính xác về độ tuổi trẻ em mà pháp luật quy định. Điều này dễ dẫn đến những hậu quả pháp lý nghiêm trọng liên quan đến các vấn đề tảo hôn, sử dụng lao động trẻ em… Post navigation
lứa tuổi thiếu niên